Tướng
Ngô Du và Quân Đoàn II

Huy hiệu Sư đoàn 22 Bộ Binh Quân Lực Việt Nam Cộng-Hòa

Anh hùng Lê Đức Đạt
Cố đại tá Trịnh Tiếu
(LTS: Ông chết khoảng năm
1995 khi vừa tới Hoa Kỳ không
được bao
lâu, sau một cơn bịnh nặng. Ông
đã bị giam trong
tù cải tạo của CS
khoảng 13
năm).
Tháng 4/1975, toàn thể Quân lực VNCH
đã bị
"bức tử"
một cách
nhục nhã.
Nhưng trước đó 3 năm, vào Mùa Hè Ðỏ Lửa 1972,
Sư đoàn 22 Bộ Binh cũng đã bị
"bức tử"
tại Tân Cảnh,
Kontum trong trường hợp tương
tợ. Tại sao
lúc đó Sư đoàn 22BB đã bị bức tử và đã
bị bức tử như thế nào?
Trận Tân Cảnh 1972
là một trong
những trận đánh
lớn nhất của Quân
Lực VNCH.
Chúng tôi, qua các chức vụ được giao
phó, có cơ hội biết được một số sự kiện liên
hệ đến trận đánh
này. Chúng tôi xin ghi lại dưới đây với hy vọng giúp
các sử gia
sau này tìm ra được câu trả lời chính
xác cho những vấn nạn kể trên.
1. Tướng Ngô
Du và Quân đoàn II
Tháng 8/1970, Thiếu tướng Ngô
Du, quyền Tư lịnh Quân
đoàn IV (sau khi Thiếu tướng Nguyễn Viết Thanh
tử trận), đã
được Tổng thống Thiệu bổ nhiệm chức vụ Tư lịnh Quân
đoàn II và Quân khu II. Tướng Ngô Du, theo nhận xét của các
giới chức Hoa Kỳ, là một tướng lãnh
thông minh, giỏi về tham mưu, hăng say phục vụ cho đất nước và
quân đội. Tuy
nhiên, theo nhận xét của họ, ông
không can đảm bằng Ðại tướng Ðỗ Cao
Trí hay Trung tướng Dư Quốc Ðống.
Ông đến
Pleiku với vài
sĩ quan thân tín của ông, lập một bộ tham
mưu riêng để làm việc. Trong thời gian
này, tôi (Ðại tá Trịnh Tiếu) là
Trưởng
Phòng Nhì Quân đoàn II và Quân khu II từ thời Trung
tướng Vĩnh
Lộc và Lữ Lan.
Ðây là lần đầu tôi
phục vụ dưới quyền Tướng Ngô
Du mặc dù đến năm
này (1970) tôi đã phục vụ trong
quân đội được 17
năm. Những ngày
đầu làm
việc với Tướng Ngô
Du, tôi phải trải qua một thời gian
trắc nghiệm khả năng
chuyên môn và thủ tục tham
mưu theo sách vở Hoa Kỳ thật gay
go. Có những buổi ông gọi tôi
lên văn phòng của ông hàng giờ để nhận xét
xem tôi có hiểu những danh từ chuyên
môn về tình
báo theo sách vở tham mưu của quân
đội Hoa Kỳ mà ông
đã biết. Rất may
là tôi đã tốt nghiệp khóa tình báo cao cấp tại Hoa Kỳ vào
năm 1968. Tôi trả lời ông rất rõ
ràng và đầy đủ những gì
ông muốn trắc nghiệm tôi,
lúc đó tôi có cảm tưởng ông
là vị Tướng chỉ huy
trưởng tham
mưu Hoa Kỳ, vì ông rất giỏi về thủ tục tham
mưu.
Tướng Ngô
Du giữ chức vụ Tư lịnh Quân
đoàn II vào một thời gian rất thuận lợi cho
ông, vì trước đó 3 tháng (5/1970), Tướng Lữ Lan đã
tổ chức một cuộc hành
quân vượt biên
qua lãnh thổ Cam-bốt đánh thẳng vào
Quân khu 702 của CS tại tỉnh
Ratanakiri. Quân đội ta đã phá hủy toàn
bộ khu hậu cần của CS tại mật khu
này, ta tịch thu rất nhiều vũ
khí nặng của địch, như
súng phòng không, cối 120 ly, đại liên
12.7 và hỏa tiễn, v.v... Còn những mật khu
nhỏ của CS
trong lãnh thổ Quân khu II, Sư đoàn 22BB và Sư đoàn 23BB cùng
với địa
phương quân đã thanh toán. Trong thời gian này, CS rất yếu, các
đơn vị chính
quy của địch hầu như bị tê liệt, vì
thế Tướng Ngô
Du đặt hết trọng tâm
vào công tác bình định và phát triển tại Quân
khu II. Ông say mê làm việc suốt ngày
đêm, vợ con
ông đều để lại
Saigon. Bà Ngô Du đặc biệt không
bao giờ tham
gia vào công việc của chồng. Có
nhiều đêm,
Tướng Ngô
Du gọi tôi
qua để thảo luận tình
hình vào lúc 2, 3 giờ sáng. Ông cũng thường điện thoại các Tỉnh trưởng
trong vùng cũng vào giờ này.
2. Tướng Ngô
Du và cố vấn John
Paul Vann
John Paul Vann, Trung tá Bộ Binh
làm cố vấn Sư
đoàn 7BB tại vùng IV từ năm 1962-1963. Sau đó,
ông về Hoa Kỳ, xin
giải ngũ để tiếp tục đại học. Ðến năm
1966, ông sang VN trở lại và
làm cố vấn dân sự cho
các chương trình bình định và phát triển. Tướng Ngô
Du rất tâm đắc với Paul
Vann về kế hoạch bình
định phát
triển tại vùng
IV trước đây.
John Paul Vann thông minh, can đảm, hiếu thắng,
kiêu căng, tự phụ và thích làm anh hùng
cá nhân. Sau khi Tướng Ngô Du được bổ nhiệm Tư lịnh Quân
đoàn II thì Paul Vann cũng muốn chức vụ cố vấn Quân
đoàn II, mặc dù ông là dân sự. Dịp may đến với Paul
Vann: Tháng 4/1971, quân đội Hoa Kỳ tham
chiến tại VN phải giảm quân
số, từ
543,500 xuống còn 270,000 quân. Vị tướng đang
làm cố vấn cho
Tướng Ngô
Du cũng được lịnh về Mỹ trong
đợt giảm quân
này. Paul Vann liền nắm cơ hội hiếm có, vận động ngầm vơi
Tướng Ngô
Du xin Hoa Kỳ bổ nhiệm Paul
Vann làm cố vấn Quân đoàn II.
Một điều rất khó xử cho Ðại tướng Hoa
Kỳ
Creighton Abrams lúc bấy giờ là làm
thế nào để một vị dân sự chỉ huy
Hoa Kỳ còn lại tại Quân
đoàn II. Trong lịch sử Hoa Kỳ, chưa
bao giờ có một dân sự giữ chức vụ cấp tướng và
chỉ huy
các đơn vị Hoa Kỳ tại mặt trận trong
thời chiến, trường hợp của Vann
là một biệt lệ.
Theo ước tính
của các
tướng lãnh
Hoa Kỳ tại VN,
vào năm 1972, CS sẽ mở nhiều mặt trận lớn tại Quân
đoàn I và Quân đoàn II, vì thế kế hoạch bình
định và
phát triển phải đặt hàng
đầu trong
năm 1971, để các đơn vị chính quy của ta
rãnh tay đối đầu với địch vào
năm 1972. Quân đoàn II cần có một cố vấn nhiều kinh
nghiệm về bình định phát
triển, hợp tác
chặt chẽ với Tướng Ngô
Du, Tư lịnh Quân
đoàn. Người cố vấn đó
không khác ai ngoài Paul Vann, vì ông đã xuất sắc trong
chức vụ này.
Tháng 5/1971, Paul Vann đã được Tướng
Abrams bổ nhiệm làm cố vấn Tư lịnh Quân
đoàn II và Quân khu II.
3. Tin tình báo Hoa Kỳ
Tháng 12/1971, tôi đang làm việc tại văn
phòng, Ðại tá
Cahn, cố vấn tình
báo của tôi,
đến mời tôi
qua văn phòng cố vấn Paul
Vann (cũng ở tại Bộ tư lịnh Quân
đoàn, gần văn
phòng Tướng Ngô
Du) để thảo luận tình
hình. Mở đầu, ông
Vann hỏi tôi:
- Ðại tá có
biết Sư
đoàn 320 của CS Bắc Việt hay
không ?
Tôi trả lời:
- Sư đoàn 320 là sư đoàn nổi tiếng tại Ðiện Biên
Phủ trong
thời gian
chiến tranh
với Pháp
vào năm 1954.
- Ðại tá có
biết sư
đoàn này đang ở đâu không ?
- Vị trí
đóng quân của các sư đoàn CS miền Bắc,
Phòng Nhì của Bộ Tổng tham
mưu nắm rất vững, tôi
sẽ hỏi và
tin cho ông biết sau.
Paul Vann nói tiếp:
- Tôi có nguồn tin
chính xác, sư đoàn này đang dưỡng quân tại Thanh
Hóa, trong tháng 2/1972 này sẽ di chuyển vào
vùng Tam Biên Việt - Miên - Lào, và sẽ tham
chiến với ta
vào tháng 2/1972.
Ông nói thêm:
- Kỳ này
tôi nghỉ phép
Giáng sinh 15 ngày tại Hoa Kỳ. Vậy Ðại tá cố gắng dùng
các phương tiện về tình báo của Ðại tá để xác nhận chính
xác vị trí của Sư
đoàn 320, sư đoàn này chuyển vào vùng Tam Biên. Tướng Ngô
Du và tôi sẽ có kế hoạch tiêu
diệt sư
đoàn này".
Tôi cám ơn về những tin
tức vừa cho.
Trước đây,
tôi đã có dịp đi quan sát phi trường
N.K.P. của Hoa Kỳ nằm trên
lãnh thổ Thái
Lan, đối diện với tỉnh
Thakkhet của Lào. Tại phi trường này,
khi phi cơ cất cánh lên cao độ thì có
thể quan
sát được đèo Mụ Gia
trên đường đi
qua biên giới Viêt - Lào, nằm giữa Vinh
và Ðồng Hới. Với những
phương tiện tình báo điện tử rất tối tân,
Hoa Kỳ có thể biết được sự di
chuyển của CS từ Bắc vào
Nam, vì thế tôi tin những tin tức tình
báo của Hoa Kỳ trên
lãnh thổ Bắc Việt là
chính xác.
4. Tung màng lưới tình
báo điện tử vào
tháng 1/1972
Tôi cho thả rất nhiều chùm
điện tử (được ngụy trang
như những cây
nhỏ trong
rừng)
trên đường mòn
Hồ Chí
Minh để báo động khi
có người đi quạ Các
máy điện tử đều hướng về Mật khu
609, nơi trú quân của Tướng
Hoàng Minh Thảo, Tư lịnh Mặt trận B3 của CS tại vùng
Attopeu (Nam Lào) để dò bắt các mật điện của Bộ tư lịnh này.
Hàng ngày đều có
máy bay không thám của Quân đoàn và phi cơ chụp không
ảnh của Bộ Tổng tham
mưu CS, chụp ảnh một khu vực rộng lớn trên
đường mòn
Hồ Chí
Minh để theo
dõi các hoạt động của địch trên
các đường mòn
đưa vào lãnh thổ Quân khu II. Các toán viễn thám,
biệt kích,
trinh sát và tình báo đã được thả xuống khắp nơi tại vùng
ba biên giới để rình bắt các
cán binh CS đi lẻ tẻ trong
rừng.
Quả nhiên,
đến cuối tháng
1/1972, các toán thám báo đã bắt được một cán
binh CS nhỏ tuổi (khoảng 17
tuổi). Người này
khai thuộc Sư
đoàn 320 vừa mới hành quân đến vùng
ba biên giới. Tù binh khai Sư đoàn 320 di chuyển ngày
đêm, đúng một tháng từ Thanh Hóa đến vùng
đương sự vừa bị bắt. Tôi
liền trình
lên Tướng Ngô
Du và cố vấn Paul
Vann các tin tức mà tù binh này đã cung cấp.
5. Kế hoạch tiêu
diệt Sư
đoàn 320 bằng B-52 của Tướng Ngô
Du và John Paul Vann
Tướng Ngô
Du và Paul Vann không muốn các đơn vị bộ binh
VNCH tiến sâu
vào các mật khu kiên cố đầy rừng núi
hiểm trở để tiêu
diệt địch như
Tướng
Westmoreland đã làm trước đây trong chiếc dịch
"Tìm và Diệt". Năm 1967, Lữ đoàn
173 Nhảy Dù và
Sư đoàn 4 Hoa Kỳ đã thiệt mất 287
người và
trên 1000 người bị thương tại Mật khu
609 của Tướng
Hoàng Minh Thảo, nhưng Tướng Westmoreland tuyên bố chiến thắng tại Hoa
Thịnh Ðốn. Paul
Vann muốn bắt chước Tướng
Walton Walker trong kế hoạch đánh
bại quân
Bắc Triều Tiên
năm 1953. Vì thế, 2 ông đã đưa ra kế hoạch dụ Sư
đoàn 320 tiến sâu vào trong lãnh thổ Quân
đoàn II (vùng Tân Cảnh - Dakto thuộc
Kontum) để tiêu diệt toàn bộ sư
đoàn thiện chiến này bằng pháo
đài bay B-52.
Paul Vann hứa với Tướng Ngô
Du rằng ông
có thể xin Ðại tướng
Abrams tất cả 25
"Box" của pháo đài bay B-52 mà Hoa Kỳ đang
dùng để yểm trợ cho VN
trên 4 vùng chiến thuật mỗi ngày,
để tiêu
diệt tối đa
quân địch tại Quân
đoàn II. (Mỗi "Box" B-52, bề dài 3 km, bề ngang
một km,
được thả bằng 3
chiếc B-52
chứa trên
100 quả bom đủ loại, từ 100 lbs đến 500 lbs). Sư đoàn 22BB tại Bình
Ðịnh được lịnh di
chuyển 2
trung đoàn và Bộ Tham mưu một của sư
đoàn lên Tân Cảnh để giao chiến với Sư
đoàn 320 của CS Bắc Việt. Quân
đoàn dự trù CS
sẽ tăng
cường Sư
đoàn 2 Sao Vàng cho mặt trận này.
Tướng Ngô
Du thiết lập thêm
2 căn cứ hỏa lực là
căn cứ 5 và 6
trên các sườn đồi phía Nam Tân Cảnh để yểm trợ hỏa lực pháo
binh cho Sư đoàn 22BB. Toàn bộ pháo binh và chiến xa cơ
hữu của sư
đoàn cũng được điều động lên
vùng này. Ngoài ra, Quân đoàn còn tăng cường thêm Biệt Ðộng Quân
để củng cố vững chắc đồn biên
phòng Ban Het, cửa ngõ đi vào lãnh thổ Quân
Ðoàn II và Quân khu II. Nhiệm vụ của Sư
đoàn 22BB là dụ cho địch xuất hiện và đi
vào thật sâu để Không
quân Hoa Kỳ tiêu diệt bằng
B-52.
Sau khi dàn binh bố trận xong,
Tướng Ngô
Du mời Ðại tướng Cao
Văn Viên lên quan sát mặt trận vào
cuối tháng
2/1972. Qua một ngày đi thăm tất cả các đồn bót
và công sự bố phòng của ta,
trước khi
ra về, Ðại tướng đã bắt tay
thân mật Tướng Ngô
Du và Paul Vann và nói:"Tôi chưa thấy một cuộc phối trí
quân sự nào
chu đáo và đầy đủ như sự phối trí
này. Tôi tin tưởng 2 ông sẽ đập nát
Sư đoàn 320 bằng hỏa lực không
quân và pháo binh của VN và Hoa Kỳ. Chúc
2 ông thành công tốt đẹp".
6. Những trục trặc đáng
tiếc:
Quân đoàn II có 2 sư đoàn chính
quy là Sư đoàn 22BB và Sư đoàn 23BB. Sư đoàn 22BB chịu trách
nhiệm lãnh
thổ 5 tỉnh phía
Bắc Quân
đoàn II gồm Bình Ðịnh, Phú Yên, Phú Bổn,
Pleiku và Kontum. Sư đoàn 23BB chịu trách nhiệm lãnh
thổ 7 tỉnh còn
lại của Quân
đoàn II là Ban Mê Thuộc, Tuyên Ðức, Quảng Ðức,
Khánh Hoà, Cam Ranh, Ninh Thuận và Bình Thuận. Sư
đoàn 22BB do Thiếu tướng Triễn làm
Tư lịnh; Sư
đoàn 23BB do Thiếu tướng Cảnh làm
Tư lịnh. 2 vị tư lịnh này
lập được nhiều chiến công
trên các mặt trận tiêu diệt địch tại Quân
đoàn II nhiều năm trước đây.
Paul Vann đề nghị Tướng Ngô
Du thay thế 2 vị tư lịnh này
viện lý do
sau đây: Mặt trận sắp tới sẽ sôi động và
gây cấn, cần phải có
các tư lịnh sư
đoàn năng động, trẻ tuổi. Hai
Tướng Triễn và Cảnh đã lớn tuổi. Như
tôi (Ðại tá Trịnh Tiếu) đã
nói trên, John Paul Vann rất năng động, hiếu thắng và
kiêu căng, nên ông chỉ thích các đại tá trẻ, có
can đảm làm
tư lịnh sư
đoàn. Tướng Ngô
Du bị bất ngờ trước ý kiến này của Paul
Vann, nên đã nói với Paul Vann biết rằng việc bổ nhiệm tư lịnh sư
đoàn là do Tổng thống Thiệu quyết định, ông
không có quyền. Hơn nữa, 2 vị tướng tư lịnh nói
trên không phạm lỗi gì, nên không thể đề nghị thay đổi được.
Nhưng Paul Vann nhất quyết đề nghị thay
thế 2 vị tư lịnh sư
đoàn. Tướng Triễn và Tướng Cảnh biết được những khó
khăn của Tướng Ngô
Du trong lúc mặt trận sắp bùng
nổ nên 2
ông đã nói với Tướng Ngô Du rằng vì
"đất nước và
quân đội",
2 ông sẽ sẵn sàng
làm đơn lên Tổng thống xin từ chức vì lý
do sức khoẻ để Tướng Ngô
Du tiện việc sắp xếp. Thái
độ của 2 Tướng này
đã làm cho quân nhân các cấp ở trong
Quân doàn khâm phục. Paul Vann đề nghị:"Ðại tá Lý
Tòng Bá và Ðại tá Lê Minh Ðảo, là
các sĩ quan trẻ, năng động và có nhiều kinh
nghiệm chiến trường mà
tôi biết tại Quân
đoàn II. Tướng Ngô Du hỏi:
- Quân đoàn II có nhiều Ðại tá trẻ và giỏi như Ðại tá Lê
Ðức Ðạt. Ðại tá
Tôn Thất Hùng,
và nhiều Ðại tá
khác, tại sao
ông không đề nghị ?". Paul Vann trả lời:"Ðại ta Lê
Ðức Ðạt mang
tiếng tham
nhũng tại Quân
đoàn III, nên tôi không đề nghị, còn Ðại tá
Tôn Thất Hùng
tôi chưa có cơ hội được biết khả năng của ông
ta.
Tình hình quân sự tại mặt trận càng
ngày càng khẩn trương, Tướng Ngô Du cần phải thỏa mãn gấp điều kiện của Paul
Vann, nhưng ông chỉ thỏa mãn
50%. Ông đề nghị Tổng thống Thiệu bổ nhiệm Ðại tá Lý
Tòng Bá làm Tư lịnh Sư đoàn 23BB và Ðại tá Lê
Ðức Ðạt làm
Tư lịnh Sư
đoàn 22BB. Sở dĩ Tướng Ngô Du đề nghị Ðại tá Lê
Ðức Ðạt là vì
Ðại tá Ðạt đang
là Tư lịnh phó
Sư đoàn 22BB, lên thay thế Tư lịnh sư
đoàn là hợp lý. Hơn nữa, Ðại tá Ðạt rất thân
với Ðại tướng Cao
Văn Viên, nên ông nghĩ rằng khi Ðại tá Ðạt lên
làm Tư lịnh tại mặt trận thì Ðại tướng Viên
sẽ yểm trợ tối đa
cho Ðại tá Ðạt. Paul
Vann rất giận Tướng Ngô
Du đã không đề nghị Ðại tá Lê
Minh Ðảo trong
chức vụ Tư lịnh Sư
đoàn 22BB.
Ðại tá Ðạt làm
Tư lịnh tại mặt trận Tân Cảnh được một tuần lễ thì địch bắt đầu chạm súng
lẻ tẻ với ta tại nhiều nơi.
Ðại tướng Cao
Văn Viên liền tăng cường cho Ðại tá Ðạt một Lữ đoàn
Dù. Tướng Ngô
Du đã thổ lộ với tôi
trên trực thăng
chỉ huy của ông
là Paul Vann là một người Mỹ rất hăng
say muốn giúp
VN, nhưng không thông cảm cho hoàn cảnh và
tình cảm của người VN.
7. Mặt trận bùng
nổ
Theo tin tức khai
thác được của các
tù binh CS thì mặt trận sẽ bùng nổ lớn vào
trung tuần tháng
3/1972, nhưng Hà Nội đã ra lịnh cho
Tướng
Hoàng Minh Thảo tấn công vào đầu tháng
4/1972 để phối hợp nhịp nhàng
với các mặt trận khác
tại Quân
đoàn I (Quảng Trị) và Quân đoàn III (Bình
Long).
Theo tin tức tình
báo mà Phòng II chúng tôi thu thập được vào
giờ chót
thì Tướng
Hoàng Minh Thảo sẽ xử dụng Sư
đoàn 2 của CS Bắc Việt đương
đầu với các
đơn vị của Sư
đoàn 22BB để cầm chân sư đoàn này tại Tân Cảnh, còn
Sư đoàn 320 của CS sẽ tiến quân
vào Kontum.
Ðể đối phó với tình
thế mới, Tướng Ngô
Du đã xử dụng Lữ đoàn
Dù vừa được Ðại tướng Viên
tăng cường, tiến chiếm dãy đồi phía
Tây sông Polco và thiết lập 2 căn
cứ hỏa lực mới là
"Charlie" và "Delta" để ngăn chặn Sư
đoàn 320 của CS. Kế hoạc phối trí
này rất tốt đẹp lúc đầu.
Vào 4g sáng ngày 3/4/1972, Sư
đoàn 320 tấn công biển người vào
căn cứ
"Delta", nhưng đã gặp sức kháng
cự vô
cùng mãnh liệt của các chiến sĩ Dù
(Mũ đỏ). Sau
nhiều đợt tấn công
và pháo kích tới tấp bằng hỏa tiển 122
ly và cối 120
ly, địch chỉ chiếm được hàng
rào đầu tiên
vào căn cứ. Tướng Ngô Du và tham mưu
lên căn cứ Võ Ðịnh trên Quốc lộ 14 để chỉ huy mặt trận. Cố vấn Paul
Vann được tin
này rất phấn khởi, cũng
bay lên quan sát 2 căn cư "Delta" và "Charlie". Paul Vann
thấy rõ một số Cộng quân
đông đảo đang
bao vây quanh căn cứ "Delta" giữa hàng rào
thứ một và thứ 2, ông
liền gọi các
phi tuần của Không
lực Hoa Kỳ cất cánh
từ Thái
Lan qua oanh kích liên tục chung quanh căn cứ
"Delta", ông còn gọi thêm các phi cơ Stinger và
Spectre, được trang bị đặc biệt đại bác
Bofors và đại liên Vulcan để yểm trợ căn cứ này.
Chiều ngày
3/4/1972, Cộng quân chưa chiếm dược đồn nhưng
các chiến sĩ Dù
đã cạn hết đạn dược, thuốc men
và nước uống. Trực thăng
Chinook của ta được lịnh Tướng Ngô
Du tiếp tế khẩn cấp đạn dược và
thuốc men
vào căn cứ "Delta" để các
chiến sĩ có
thể bảo vệ căn cứ trong
đêm nay. Nhưng trực thăng đã bị hỏa lực phòng
không của địch bắn rới ngoài
đồn. Thấy thế, Paul
Vann đã liều lĩnh xử dụng trực thăng
nhỏ, loại mới nhất của quân
đội Hoa Kỳ, là
OH58 Kiowa, chỉ có 2 chỗ ngồi để tiếp tế. Ðích
thân ông lái máy bay còn Trung úy Huỳnh Văn Cai, người được Tướng Ngô
Du chỉ định làm
sĩ quan tùy viên cho Paul Vann, đạp từng
thùng đạn,
thùng thuốc xuống giữa căn cứ, mặc dù
súng phòng không địch đủ loại 14.5
ly, 12.7 ly bắn lên tới tấp. Bất chấp mọi nguy
hiểm, Paul
Vann đã tiếp tế cho đơn vị Dù các
chuyến đầy đủ dạn dược, mìn
chiếu sáng,
thuốc men
và nước uống, để đơn vị này có
thể cầm cự với địch quân
đêm sắp tới. Chuẩn tướng
Gerge Wear, Tư lịnh phó, và Ðại tá
Joseph Pizzi, Tham mưu trưởng của Paul
Vann phải kêu
lên:"Thật điên rồ !". Tướng Ngô
Du phải khâm
phục hành
động táo
bạo của Paul
Vann.
Kết quả, Sư
đoàn 320 của CS bị thảm bị thảm bại nặng nề tại căn cứ
"Delta". Tướng Hoàng Minh Thảo phải bổ sung
quân số cấp tốc cho
sư đoàn này và sau đó 10 ngày (14/4/1972) lại cho mở cuộc tấn công
vào căn cứ "Charlie". Lần này Lữ đoàn
Dù do Trung Tá Nguyễn Ðình Bảo chỉ huy bị một hỏa tiễn 122
ly trúng vào hầm chỉ huy làm Trung tá Bảo tử trận ngay
giây phút đầu tiên. Những sĩ quan còn lại của Trung
tá Bảo thấy địch quá
đông nên đã rút khỏi căn cứ và bỏ xác
Trung tá Bảo lại trong hầm.
Ngày 20/4/1972, tình hình tại Quảng Trị (Quân
đoàn I) quá nặng, nên Ðại tướng Viên
phải rút Lữ đoàn
Dù tại
Kontum để tăng
cường cho
mặt trận Quảng Trị. Tình
hình quân sự tại mặt trận Tân Cảnh bắt đầu đen tối. Tướng Ngô
Du vô cùng lo lắng.
8. Không tin nhưng phải làm :
"Câu chuyện sau
đây do chính Trung tá Trần Hữu Công,
Chánh văn phòng của Tướng Ngô
Du, kể lại cho
tôi. Thân sinh Tướng Ngô Du là cụ Ngô
Khôi, một viên
chức của chính
quyền thuộc địa Pháp.
Ðang sống tại Qui
Nhơn, thấy con
mình quá lo âu cho chiến trường sắp đến, nên
đã vội lên
Pleiku và nói với Tướng Ngô
Du như sau:"Con à, cha biết trách nhiệm của con rất nặng đối với đất nước và
quân đội, nhất là
sinh mạng của các
chiến sĩ. Vậy con
phải xin
ơn trên phù hộ. Cha đề nghị con xuống Qui
Nhơn, ở đó có
đền Ðức Thánh
Trần. Dân
địa
phương rất tin
vào sự thiêng
liêng của ngài.
Con mang lễ vật đến xin
ngài phù hộ, cứu độ sinh mạng đồng bào
và các chiến sĩ trong vùng trách nhiệm của
con". Lắng nghe lời dặn của cha,
Tướng Ngô
Du đã vâng dạ rất lễ phép,
nhưng ông không thi hành vì ông theo đạo Thiên Chúa. Tuy nhiên,
Tướng Ngô
Du giao nhiệm vụ này cho Trung tá Công.
Khi Trung Tá Công đem lễ vật vào đền thì vị sư trụ trì
nhìn thẳng vào
Trung tá và nói rõ:"Ông không có niềm tin thì đến đây
làm gì? Hãy mang lễ vật trở về
". Trung tá Công giật mình hoảng sợ, đã cố trình
bày lý do tại sao ông cần phải đến cầu xin Ðức Thánh
Trần và
xin vị sư đó
giúp cho.Vị sư này chấp nhận và
cùng với Trung
tá Công khấn vái. Lễ lạc xong,
nhà sư đưa cho Trung tá Công một lá bùa, bảo đốt ra
tro và rải xuống những vị trí
nào thấy nguy
hiểm nhất.
Trung tá Công đã làm đúng theo lời vị sư,
ông dùng trực thăng rải xuống đồn Ben
Het (giáp biên giới Lào) theo lịnh của Tướng Ngô
Du.
Ngày 28/4/1972, CS tấn công
đồn này bằng 10
chiến xa
T54, nhưng đã bị Paul Vann điều động 2 trực thăng
võ trang Cobra trang bị hỏa tiễn chống chiến xa,
được điều khiển bằng tia
Laser bắn rất chính
xác, tiêu diệt 5 chiến xa T54 tại chỗ. 5 chiếc còn lại phải chạy trốn qua
biên giới Lào.
Sau đó ta rút quân khỏi đồn này,
vì vị trí
quá xa và hẻo lánh.
9. Đại tá Lê
Đức Đạt, Tư lịnh Sư
đoàn 22 BB và Jonh Paul Van :
Các toán biệt kích
và viễn thám
của ta phục kích
sâu trong rừng, hằng đêm đều nghe
tiếng chiến xa của CS di
chuyển. Tôi
báo động về sự xuất hiện của chiến xa
T54 để Tướng Ngô
Du và Paul Vann tìm cách đối phó. Tướng Ngô
Du tin những báo cáo của tôi, nhưng Paul Vann
thì hoài nghi. Ông cho rằng đó chỉ là loại xe
thường, hoặc là
T76S, chiến xa lội nước hạng nhẹ không
đáng kể của CS. Ðối với Paul
Vann phải trông
thấy tận mắt mới tin.
Tướng
Hoàng Minh Thảo thấy Lữ đoàn
Dù đã rút, nên ông có kế hoạch tấn công
cấp tốc để dứt điểm Sư
đoàn 22BB tại Tân Cảnh bằng Sư
đoàn 320 và Sư đoàn 2 Sao Vàng bằng chiến xa
T54 và hỏa tiễn
Sagger do Liên Xô chế tạo. Chiến xa
T54 và hoả tiễn Sagger là 2 loại vũ
khí tối tân
được sử dụng lần đầu tiên
tại chiến trường Miền Nam
trong Mùa Hè Ðỏ Lửa 1972. T54 là loại chiến xa bọc sắt cứng,
dày, tương đương với chiến xa
M48 của Hoa Kỳ. Hỏa tiễn
Sagger mà ta gọi là AT3, là loại hoả tiễn chống chiến xa bằng
giây. Giống như
hỏa tiễn Tow của Mỹ, nhưng
tầm xa
kém (hỏa tiễn Tow tầm xa
3000; hoả tiễn
Sagger 200 m).
Trong những ngày
20, 21 và 22/4/1972, các sư đoàn địch áp sát bao vây Tân Cảnh. Khi
đã khám phá đầy đủ các vị trí của địch xuất hiện, tôi
trình Tướng Ngô
Du phải diệt địch ngay
bằng B52
theo như kế hoạch trước đây
mà ông và Paul Vann đã tính toán. Nhưng Paul Vann đã từ chối xử dụng
B-52, vì trong thâm ý, ông không muốn yểm trợ cho Ðại tá Lê
Ðức Ðạt. Tướng Ngô
Du nổi giận la
to:"Ông Paul Vann, ông là bạn hay là kẻ thù của tôi
?". Paul Vann làm thinh bỏ đi. Ông dùng trực thăng
bay xuống mặt Bắc Bình
Ðịnh.
Thời gian
này, mặt trận mặt Bắc Bình
Ðịnh cũng
rất sôi động. Tướng Ngô
Du chỉ dịnh Ðại tá Trần Hiếu Ðức,
Trung đoàn trưởng Trung đoàn 40 thuộc Sư
đoàn 22BB làm Tư lịnh chiến trường, chịu trách
nhiệm bảo vệ 3 quận Hoài
Ân, Bồng Sơn
và Tam Quan. Sư đoàn 2 Sao Vàng CS được lịnh phối hợp nhịp nhàng
với các mặt trận khác
nên đã tung quân bao vây quận Hoài Ân. Tại đây,
Paul Vann cũng gây khó khăn cho Ðại tá Ðức về yểm trợ hỏa lực trong
khi bị áp lực nặng nề của địch. Ðại tá Ðức liền ra lịnh rút bỏ quận Hoài
Ân để cố thủ quận Bồng Sơn.
Ngày 21/4/1972, Paul Vann bay lên Tân Cảnh thăm Ðại tá
Philip Kaplan, cố vấn cho Ðại tá Lê
Ðức Ðạt. Tại hầm chỉ huy, mặc dù biết Paul
Vann không ưa thích, Ðại tá Ðạt vẫn trình
bày đầy đủ chi tiết cho
Paul Vann rõ. Paul Vann đã có hành động thiếu lịch sự, ông
chỉ mạnh vào
bản đồ và nói
cộc lốc bằng giọng
mũi:"Ðại tá Ðạt, ông sẽ là vị Tư lịnh Sư
đoàn VN đầu tiên làm mất Sư đoàn và bại trận".
Ðại tá Ðạt rất tức giận, ông
đã vứt điếu thuốc đang
hút xuống đất, cười gằn và bảo Paul
Vann:"-, chuyện đó sẽ không
bao giờ xảy
ra".
Ngày 23/4/1972, một Tiểu đoàn
Bộ Binh của Sư
đoàn 22 chạm súng với địch rất sớm,
không quá xa Bộ tư lịnh sư đoàn, đồng thời địch pháo
kích tới tấp vào
căn cứ Tân Cảnh bằng hỏa tiễn 122
ly. Chiến xa bảo vệ Bộ tư lịnh của sư
đoàn của Ðại tá Ðạt gồm 10
chiếc được điều động ra để chống lại địch, đã
bị hỏa tiễn
Sagger bắn cháy
mất 8 chiếc, còn
lại 2 chiếc thì bị đứt xích.
Người bạn rất thân
với tôi
trước đây tại Qui
Nhơn là Thiếu tá Như cùng Ðại úy
Kenneth Yonan, 23 tuổi, xuất thân
từ trường
Wespoint, đã leo lên tháp nước cao tại căn cứ, xử dụng đại liên
12.7 ly để tấn công địch,
cũng bị hỏa tiễn
Sagger bắn, bồn nước nổ tung
và cả hai
người chết tại chỗ. Các
đơn vị của ta chạm súng
suốt ngày
với địch tại Tân Cảnh. Tướng Ngô
Du sử dụng tối đa hỏa lực không
quân để yểm trợ cho Ðại tá Ðạt.
Khoảng 10g
tối ngày
23/4/1972, quận Dakto cách Tân Cảnh 2 km về phía Bắc, do Ðịa Pương
Quân và Nghĩa Quân người Thượng bảo vệ, đã
quan sát thấy đèn của 11 chiến xa
T54 đang tiến về hướng quận. Quân
đoàn liền điều động
C-130 Spectre lên thả trái sáng. Chiến sĩ ta
trong các hầm chiến đấu cá
nhân đã thấy tất cả 15 chiếc chiến xa
T54 của địch xếp hàng
dọc chạy tiến về Tân Cảnh. Phi
cơ C-130 tác xạ để ngăn không cho chiến xa địch tiến,
nhưng vô hiệu quả, vì loại phi
cơ này không có loại đạn chống chiến xa.
Khoảng 2g
sáng ngày 24/4/1972, 15 chiến xa địch đã
bao vây căn cứ Tân Cảnh. Ðại tá
Philip Kaplan yêu cầu Paul Vann lên cứu ông
vào lúc 4g khi trời chưa sáng tại bãi
đáp rất nhỏ bên cạnh bãi
mìn. Ðại tá
Kaplan cho Ðại tá Ðạt biết và
yêu cầu cùng
lên trực tăng
cấp cứu của Paul
Vann nhưng Ðại tá Ðạt từ chối. Ðại tá Ðạt biết tình
hình rất bi
đát, địch sẽ tràn
ngập căn cứ vào
khoảng 7g
sáng, nhưng ông không yêu cầu Tướng Ngô
Du lên cứu như Ðại tá
Kaplan đã làm. Ông ra lịnh cho tất cả các sĩ
quan và binh sĩ còn lại tìm cách thoát ra ngoài trước khi
trời sáng.
Ðại tá
Tôn Thất Hùng
đã thoát được nhưng bị thương; ông chạy vào một buôn
Thượng gần đó.
Nhờ nói được tiếng Thượng rất rành,
nên đã được một gia đình người Thượng che
dấu và bảo vệ ông,
đưa ông về đến thị xã
Kontum sau 15 ngày đi loanh quanh trong rừng. Ba tháng sau, ông
cùng gia đình lên Pleiku để đền ơn
cho gia đình người Thượng này
đang sống
trong trại tị nạn.
Ðại tá Lê
Ðức Ðạt đã ở lại trong
căn cứ Tân Cảnh.
Theo lời Ðại tá
Kaplan, có lẽ Ðại tá Ðạt đã tự sát
sau khi đồn Tân Cảnh bị Cộng quân
tràn ngập. Ðó
là ngày 24/4/1972, lúc 10g sáng.
Ai cứu
Kontum trong cơn hấp hối:
Sau khi mặt trận Tân Cảnh bị thảm bại, Tư lịnh Sư
đoàn 22BB chết mất xác tại mặt trận,
thành phần Bộ tham
mưu sư đoàn và chỉ huy trưởng các
cấp cũng
như binh sĩ bị bắt làm tù binh hay bị chết, chỉ một số rất ít chạy được về
Kontum. Sư đoàn 22B tan rã. Vì thế, phòng tuyến kiên
cố nhất để bảo vệ thị xã
Kontum coi như không còn nữa. Tòa hành chánh tỉnh
Kontum với dân số 25,000
người sống
trong thị xã đã
hoang mang giao động cao độ, chuẩn bị tản cư.
Tướng Ngô
Du rất khổ tâm
trong thời gian
này. Ông bị xúc động khi được tin Ðại tá Lê
Ðức Ðạt tử trận. Những hy vọng thắng trận vinh
quang mà ông ấp ủ trong lòng trên 3 tháng
nay đã tiêu tan và biến thành thảm bại cay đắng vì
có những bất đồng giữa ông
và Paul Vann, và thành kiến không tốt đẹp của Paul
Vann đối với Ðại tá Lê
Ðức Ðạt. Do
đó, bịnh tim
của ông bị tái
phát. Thông thường chiến thuật Cộng quân
là thừa thắng xông
lên. Do đó, chúng tôi không loại bỏ giả thuyết Cộng quân
sẽ đánh
Kontum, vì nơi đây chỉ có Ðịa
Phương Quân và Nghĩa Quân trấn giữ. Tướng Ngô
Du phải cho
tái phối trí lực lượng, điều động 2
Trung đoàn Bộ Binh từ Ban Mê Thuột lên cố thủ
Kontum, chỉ để lại một Trung
đoàn phòng thủ 7 tỉnh phía Nam của Quân
đoàn.
Ðại tá Lý
Tòng Bá, Tư lịnh Sư đoàn 23BB, được chỉ định làm
Tư lịnh mặt trận
Kontum. Tướng Ngô Du chỉ mong Tướng
Hoàng Minh Thảo hoãn tấn công vào Kontum 5 ngày
thôi, thì ông và Ðại tá Lý Tòng Bá đủ thời gian
phối trí
quân và đào công sự vững chắc phòng
thủ thị xã
này.
Ðường chuyển quân
và tiếp vận chính
giữa
Pleiku - Kontum là Quốc lộ 14 rất yên
tĩnh trong 3 ngày đầu, đến ngày
thứ tư thì
Cộng quân
chiếm và
đóng chốt đèo
Chu Pao, giao thông bị gián đoạn. Rất may
khi địch chiếm đèo
Chu Pao thì ta vừa chuyển quân
xong. Cộng quân
không tiến quân
tiếp vào
Kontum sau 5 ngày như Tướng Ngô Du dự tính
mà đến 20
ngày sau. Như vậy, chúng ta có thể tin rằng Sư
đoàn 320 và Sư đoàn 2 của Cộng quân
đã bị tổn thất khá nặng
trong các cuộc chạm súng trước đây với Lữ đoàn
Dù và Sư đoàn 22BB. Các chiến xa T54 của địch cũng
bị tiêu
hao một số tại phi
trường
Dakto do Không quân VN bắn cháy và một số tại đồn Ben
Het do Cobra của Hoa Kỳ phá hủy. Vì
thế, Tướng
Hoàng Minh Thảo cần có thời gian
củng cố lại đơn vị của ông
chớ không
thể mở cuộc tấn công
mới ngay
được.
Phối trí
quân xong tại Kontum, Tướng Ngô Du ngã bịnh nặng,
không ăn, không ngũ. Tôi thấy ông ngày đêm ôm tim và nhăn nhó.
Trước đó một ngày,
ông đã điện thoại Tổng thống Thiệu và
yêu cầu Tổng thống đề cử người thay
thế ông. Tại
Saigon, TT Thiệu và Ðại tướng Cao
Văn Viên tham khảo ý kiến với nhiều vị Trung
tướng,
nhưng không ông nào chịu lên làm Tư lịnh Quân
đoàn II, vì biết tình hình rất đen tối tại đây.
Cuối cùng,
TT Thiệu chọn Thiếu tướng Nguyễn Văn
Toàn, vì Tướng Toàn đồng ý tử thủ tại
Kontum.
Ðại tá Lý
Tòng Bá, người mà Paul Vann khẩn thiết yêu cầu Tướng Ngô
Du đề nghị TT Thiệu đề cử làm Tư
lịnh Sư
đoàn 23BB, nay đang nằm tại mặt trận
chính. Paul Vann làm việc tại
Kontum với Ðại tá Lý
Tòng Bá trong lúc chưa có cố vấn của Sư
đoàn. Paul Vann nhớ đến Ðại tá
Rhotenberry là người làm cố vấn cho Ðại tá Bá
tại Bình
Dương. Khi đưa Ðại tá Rhotenberry đến
Kontum, Paul Vann nói:"Ông và tôi phải hết sức yểm trợ Ðại tá Bá
vì tôi đã hứa với Ðại tướng
Abrams là không để mất
Kontum. Nếu mất Kontum, thì Kissinger,
Trưởng phái
đoàn Hoa Kỳ tại Hoà đàm Paris, sẽ gặp nhiều khó
khăn".