Hội Sử-Học Việt-Nam
Vietnamese historical Association
Websites : http://www.truclamyentu.info;http://www.quansuvn.info
https://www.facebook.com/Quân-Sử Việt-Nam
https://www.facebook.com/pages/Trúc-Lâm Yên-Tử
Google+1 Quân Sử Việt Nam; Google+1 Trúc Lâm Yên Tử
Thần Việt Điện_Thập Bát Đại Thần Tướng Việt Nam

Điện
Thần Việt tôn thờ chư tướng thần
Sinh ra là Tướng chết đi thành thần
Thế, Đông, Ân, Thanh, Đạt, Vinh, Thà, Phúc, Tùng, Thông, Hiếu,
Long, Phú, Vỹ, Hai, Hưng, Nam, Cẩn
Ngàn năm sau ghi nhớ gương anh hào.
Trúc Lâm Lê An Bình sưu khảo; Trúc Lâm Nguyễn Việt Phúc Lộc hiệu đính
(trích Thần Việt Điện tức Tân U Linh Việt Điện)
14/ Thần tướng Lê-nguyên-Vỹ (1933 - 1975)

Thần tướng Lê-nguyên-Vỹ
- Chuẩn
tướng Lê Nguyên Vỹ (1933-1975) là Tư lệnh Sư đoàn 5 bộ binh của
Quân lực Việt Nam Cộng hoà, là một trong năm tướng lĩnh đã tự sát
trong sự kiện 30 tháng 4, 1975.
- Ông
sinh ngày 22 Tháng Tám năm 1933 tại Sơn Tây. Năm 1951 ông theo
học khóa 2 (Lê Lợi) trường Võ bị Địa phương Huế đến năm 1965 được
thăng Thiếu tá.
- Ông
tham gia trong chiến trường An Lộc tử thủ căn cứ chỉ huy. Sau
khi chiến thắng, được đề bạt lên làm Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 21 Bộ
Binh.
Năm 1974, ông được thăng chuẩn
tướng sau khi học một khóa học chỉ huy và tham mưu cao cấp tại
Hoa Kỳ và giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh.
Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ về
đảm nhiệm chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh vào khoảng giữa năm
1973, khi ông vẫn còn mang cấp bậc Đại Tá. Ông nổi tiếng về tinh
thần dũng cảm và chống cộng cương quyết, cũng như tính tình nóng
như lửa của ông.
Vào mùa Hè năm 1972, Đại Tá Lê
Nguyên Vỹ, Phó Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh đã có mặt ở Bộ Chỉ Huy
Tiền Phương của Sư Đoàn tại An Lộc cùng Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng,
Tư Lệnh Sư Đoàn. Họ đâu biết rằng họ sẽ là chứng nhân cho một
biến cố lịch sử.
- Rạng
sáng ngày 5 tháng 4 năm 1972, Cộng Sản Bắc Việt xua bốn sư đoàn
(5, 7, 9 và Bình Long) và hai trung đoàn xe tăng 202, 203 nhiều
đơn vị yểm trợ tấn công thị xã An Lộc. Cộng quân đã dùng những
trận mưa pháo để chà nát và san bằng thị xã nhỏ bé nàỵ Hàng ngàn
đồng bào vô tội đã bỏ mình dưới hỏa lực của Cộng quân.
Nhiều lần, Cộng Sản Bắc Việt
dùng chiến xa T-54 tấn công thẳng vào nơi Chỉ Huy Tiền Phương của
Sư Đoàn 5 đang đóng. Lần đầu tiên người lính VNCH gặp phải chiến
xa địch, lại không tin tưởng vào khả năng của vũ khí của mình,
nên đã hoảng hốt tìm nơi ẩn tránh. Không thể trách họ, vì hoả
tiễn M72 không đủ sức xuyên phá nếu bắn vào đằng "mũi" của xe
T-54. Khi ấy tướng Hưng đã cầm sẵn một trái lựu đạn nơi tay, với ý
định nếu Việt Cộng tràn vào, ông tung ra, tất cả cùng chết. Chiếc
chiến xa đi đầu đã tiến gần, quay ngang quay dọc để tìm kiếm
trung tâm chỉ huy. Đại Tá Vỹ thừa cơ đứng lên, bắn một quả đạn M72
vào hông xe làm chiếc xe tăng bốc cháy. Binh sĩ lên tinh thần
theo phương pháp diệt xe của Đại Tá Vỹ, bò theo nhũng vách tường,
bờ giậu để bắn xe địch. Kết quả là đoàn xe bị tiêu diệt.
Sau 68 ngày tử thủ, Cộng quân
bị đánh lui và An Lộc được giải toả. Đại Tá Lê Nguyên Vỹ được
thăng cấp Chuẩn Tướng và về chỉ huy Sư Đoàn 5 Bộ Binh tại căn cứ
Lai Khê (Bình Dương) khi Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng đi nhận nhiệm vụ
mới ở Quân Khu IV.
Tại Lai Khê, ông làm việc không kể giờ giấc, ngày đêm, trong
việc xây dựng và tu bổ hệ thống phòng thủ, cũng như huấn luyện binh
sĩ. Ông cũng rất nhiệt tình trong việc bài trừ tệ nạn và tham
nhũng trong hàng ngũ quân đội. Vì thế, ông đã mang lại miềm tin
tưởng cho mọi người .
- Cuối
tháng 4 năm 1975, quân Cộng Sản Bắc Việt từ nhiều ngả tiến về
Saigon. Nhưng cánh quân phía Đông Bắc của chúng không thể vượt
qua căn cứ Lai Khê, mặc dù có lực lượng đông gấp nhiều lần. Chuẩn
Tướng Lê Nguyên Vỹ đã làm tròn nhiệm vụ.
- Tướng Lê Nguyên Vỹ đã tự sát bằng súng lục ngay tại bộ tư lịnh sư đoàn 5 bộ binh.
- Thi
thể Tướng Lê Nguyên Vỹ được an táng trong rừng cao su gần doanh
trại Bộ Tư Lệnh, sau đó được thân nhân bốc lên đem về cải táng ở
Hạnh Thông Tây, Gò Vấp. Năm 1987, hài cốt ông được thân mẫu (mẹ)
hỏa thiêu và đem về thờ ở từ đường họ Lê Nguyên tại quê nhà ở
tỉnh Sơn Tây.
Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, Tư Lịnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh
Tướng Lê Nguyên Vỹ về đảm
nhiệm chức vụ Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh, khi ông còn mang cấp bực
Ðại Tá, vào khoảng tháng 6 năm 73, trong lúc vết thương ở chân của
ông chưa lành hẳn, bước đi còn khập khễng và chống gậy vì bị tai
nạn trực thăng khi ông là Tư Lệnh Phó Sư Ðoàn 21 BB. Ông là một
vị chỉ huy gan dạ nổi tiếng nhất của Sư Ðoàn 5 BB lúc ông còn là
Trung Ðoàn Trưởng: "Nhất Vỹ, nhì Gia" (Trung Tá Gia hình
như họ Hà, Hà Văn Gia, vì đã lâu ngày tôi không nhớ rõ). Ðây là
câu nói tôi được nghe nhiều lần nơi sĩ quan và binh sĩ khi rời
quân trường về trình diện Sư Ðoàn vào tháng 1-68. Rất nhiều đồng
bào và anh em chiến sĩ thuộc các đơn vị bạn quanh vùng Lái Thiêu,
Bình Dương cho đến các tỉnh biên giới Bình Long, Phước Long đều
biết đến tên ông. Có lẽ một phần vì tinh thần chiến đấu kiên trì
và dũng cảm, một phần vì tánh tình nóng nảy như lửa đốt của ông.
Tinh thần kiên trì và dứt khoát chiến đấu chống cộng của ông
đã biểu lộ qua câu chuyện của một sĩ quan tham mưu Sư Ðoàn kể cho
tôi nghe "Ông Vỹ có một cô em gái đi theo VC, viết thư khuyên
ông nên quay về với "Bác và Ðảng" và ông đã trao bức thư này cho
An Ninh Quân Ðội VNCH để nghiên cứu".
Sự chiến đấu dũng cảm của ông gần như
mọi người thuộc Sư Ðoàn đều biết vào mùa hè đỏ lửa năm 72 ở An
Lộc. VC lùa 3 Sư Ðoàn (Công Trường số 5, 7 và 9, Trung Ðoàn Thiết
Giáp T54 và các đơn vị trọng pháo 130 ly để bao vây và tấn công
thành phố An Lộc, tỉnh Bình Long. Ðại Tá Lê Nguyên Vỹ, Tư Lệnh Phó
Sư Ðoàn cùng với Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Ðoàn đã tích cực
điều động các đơn vị phòng thủ đẩy lui nhiều đợt tấn công ác liệt
kéo dài ròng rã gần 3 tháng trời. Ở vào cao điểm khốc liệt nhất,
khi VC quyết định sử dụng toàn bộ lực lượng để dứt điểm chiến
trường, chúng tung nhiều đợt pháo kích, sử dụng lực lượng xung
kích chủ yếu, thiết giáp T54 và bộ binh kết hợp tiến thẳng vào trung
tâm chỉ huy của Tướng Lê Văn Hưng. Vì bị thiệt hại nặng nề do đạn
pháo, các đơn vị phòng thủ VNCH phải co cụm lại từng tụ điểm để
chống trả. Khi thấy chiến xa và bộ binh địch xuất hiện từ xa, tất
cả các loại súng cối của ta bắn ra xối xả, khiến bộ binh VC phải
giật lùi lại phía sau, chỉ còn thiết giáp VC vẫn một hàng dọc,
theo đường phố tiến vào nơi phòng thủ của Tướng Hưng. Vì lần đầu
tiên người lính VNCH nhìn thấy chiến xa địch và phần vì không tin
tưởng vào vũ khí chống chiến xa M72, hầu hết đều kinh hoàng và
tìm nơi ẩn nấp. Ngay cả đến những người lính phòng thủ trước cửa
hầm của Tướng Hưng cũng vậy, khi nhìn thấy chiến xa đã tới gần,
tất cả đều nhảy ào xuống hầm. Ðại Tá Lê Nguyên Vỹ đã nhanh nhẹn
chụp lấy một khẩu M72 của người lính đứng bên cạnh, ông bước lên
miệng hầm. Trong khi ấy, Tướng Lê Văn Hưng đã cầm sẵn một trái lựu
đạn nơi tay với ý định nếu VC tràn vào, ông tung ra, tất cả cùng
chết. Chiếc chiến xa đi đầu đã đến gần, nhưng vì chúng chưa định ra
được chiếc hầm nào là hầm của Tướng Hưng đang thủ, chúng quay
ngang, quay dọc để tìm kiếm. Thừa lúc ấy, Ðại Tá Vỹ đã bắn ngay một
quả đạn M72 vào hông xe làm chiếc xe bốc cháy. Binh sĩ lên tinh
thần reo hò, và họ lần theo từng căn nhà, từng bờ tường để bắn
những chiếc còn lại. Kết quả là gần 50 chiếc chiến xa địch bị bắn
cháy ngay trên trận địa.
Tướng Lê Nguyên Vỹ được
thăng cấp khoảng cuối năm 1974 (tôi không nhớ rõ). Ông đã phải
đương đầu với một hoàn cảnh vô cùng khó khăn: vừa phải lo đối phó
với áp lực của quân địch, và vừa lo chấn chỉnh nhân sự, củng cố
đơn vị v.v...Ông làm việc không kể giờ giấc, ngày đêm, hết ở Bộ
Tư Lệnh căn cứ tại Lai Khê, lại chạy tới các căn cứ của Trung
Ðoàn, Tiểu Ðoàn để kiểm tra, đốc thúc đào hào, tu bổ hệ thống
phòng thủ, đắp chướng ngại vật để cản chiến xa. Ông cũng lưu tâm
đặc biệt việc rèn luyện tân binh, thường xuyên mở lớp huấn luyện
và ôn tập cho các cán bộ và binh sĩ.
Ðặc biệt về công tác bài trừ
tệ nạn tham nhũng, ông làm rất hăng say. Sau khi Tướng Trần Quốc
Lịch bị điều tra và bắt giam ở quân lao, một số các cấp chỉ huy
khác đã bị trừng phạt: Thiếu Tá Hồ Ngọc S., TÐT/TÐ3/9, Ðại Úy H.,
ÐÐT/ÐÐ5 Trinh Sát bị giáng cấp xuống trung sĩ và một số nữa tôi
không còn nhớ rõ. Việc bài trừ tham nhũng, không ai nghi ngờ
thiện chí của Tướng Vỹ, ông rất nhiệt tình. Ông chỉ có một tật
xấu mà tôi ghi nhận được là tính nóng nảy. Một câu chuyện tôi
nghe được khi ông làm việc tại trung tâm hành quân, phòng 3
BTL/SÐ. Hôm ấy, một binh sĩ bị quân cảnh bắt về trình diện ông về
tội đánh lộn và cướp giật ngoài chợ Lai Khê. Câu chuyện tôi nghe
được khi ông đang đứng nói với một sĩ quan khác trước cửa văn
phòng: "Tôi chửi mắng cho một trận, mặt hắn cứ trơ trơ ra,
không tỏ vẻ ăn năn hối hận gì. Thình lình tôi quay cây gậy đập tới
tấp, cu cậu không biết đường mà đỡ, bị một trận nên thân!". Những việc như vậy, ông thường làm, nhưng lại chưa nghe ai nói ông cạo đầu nhốt chuồng cọp binh sĩ.
Trong một buổi lễ khai giảng
khóa huấn luyện tân binh, đứng trước cả ngàn người vừa tân binh
lẫn cán bộ và lính cơ hữu của trung tâm huấn luyện ở Lái Thiêu, ông
công kích kịch liệt trong gần một tiếng đồng hồ về tệ nạn tham
nhũng. Ông nói rất nhiều, nhưng chỉ có một câu tôi nhớ hoài,
không bao giờ quên: "Chúng nó đã móc ngầm với nhau rất chặt chẽ, mình phải gỡ ra từ từ mới được".
Trong một phiên họp ở
BTL/SÐ, ông gọi những người được gởi gấm nhiều năm, hết đời Tư Lệnh
này tới đời Tư Lệnh khác, sống lưu cựu tại trung tâm huấn luyện
Sư Ðoàn là những con heo. Ông nói: "Chúng nó ăn no béo mập như những con heo".
Ông muốn "bứng" đám người này đi mà cũng không làm được, Có lẽ
vì họ có những cái "gốc" lớn mà rễ của nó đã mọc tới Sài Gòn. Sức
lực của ông cũng có hạn, đôi vai ông cũng nhỏ bé như vai mọi
người, không lớn rộng như vai Từ Hải! Tuy nhiên tôi ghi nhận,
trong thời gian ông làm Tư Lệnh, tệ nạn tham nhũng, nếu không
muốn nói đã bị chận đứng thì cũng phải giảm đi rất nhiều; không
còn cảnh ăn chơi phè phỡn trong khi người khác cặm cụi làm việc.
Nhìn chung, từ ngày Tướng Vỹ
về Sư Ðoàn, ông đã cải tổ, xây dựng được nhiều vấn đề. Ông đã
mang lại niềm tin tưởng cho mọi người .
Việt Cộng càng ngày càng di chuyển người, vũ khí, lương thực
về gần Sài Gòn hơn. Áp lực quân sự ngày càng gia tăng. Việc tiếp
tế bằng phi cơ cho An Lộc và Chơn Thành quá tốn kém mà chỉ để bảo
vệ những đống gạch vụn tại thành phố An Lộc và những vùng đất
hoang vu, không người ở. Dân cư tại các làng mạc, đồn điền đều đã
di tản để tránh bom đạn hồi năm 1972, một số chạy ngược lên Lộc
Ninh, số còn lại chạy về Sài Gòn. Vào khoảng cuối năm 1974, các
lực lượng phòng thủ An Lộc và Chơn Thành được lệnh triệt thoái.
Một việc làm Tướng Vỹ buồn lòng không ít khi một Tiểu Ðoàn của
Trung Ðoàn 8 ở Chơn Thành rút lui, ông chỉ thị phải ưu tiên chở
hỏa tiễn Tow về trên chuyến phi cơ đầu tiên để ông tái phối trí
nơi khác (Tow là một loại hỏa tiễn chống chiến xa rất hiệu nghiệm
và rất đắt tiền). Ông đích thân ra sân bay đón chờ. Khi chuyến
bay đầu tiên hạ cánh, hàng bốc xuống hết, ông không thấy hỏa tiễn
Tow đâu cả, mà chỉ toàn là hàng câu lạc bộ như bia, nước ngọt, cà
phê, sữa, v.v...Thế rồi ông nổi cơn thịnh nộ, rồi đích thân lái
xe jeep ủi sập hết đống hàng này.
Tình hình quân sự ngày càng
nghiêm trọng, tỉnh lỵ Phước Long bị VC tràn ngập vào ngày 3/1/75,
nhưng QLVNCH không có nỗ lực nào để tái chiếm. Những người chỉ huy
quân sự nói chung và của SÐ5BB nói riêng đã bắt đầu lo ngại,
nhưng tất cả đều đồng ý rằng, trong chiến tranh, hôm nay mất ngày
mai chiếm lại là việc thông thường, không có gì lo âu quá đáng.
Khi Ban Mê Thuột thất thủ, quân
đội VNCH rút khỏi Cao Nguyên, miền Trung và khi tuyến phòng thủ
miền Ðông (Phan Rang, Long Khánh) bị bể, những lực lượng còn lại
của QLVNCH đang lui dần về phía cầu xa lộ Biên Hòa, tôi được lệnh
chuẩn bị kế hoạch, trang bị nhẹ, dự trù trong trường hợp Sài Gòn
thất thủ, sẽ lui dần về Vùng 4 để tiếp tục chiến đấu. Tôi không
biết lệnh này xuất phát từ đâu!
Lúc này những đoàn quân VC ở
phía Bắc Sài Gòn đã ép sát với phòng tuyến của SÐ5BB. Ở phiá quận
lỵ Phú Giáo, vào ngày 23 và 27/4/75, phi cơ phản lực, cứ 2 chiếc
luân phiên nhau thả bom vào những vị trí tập trung của quân địch
để ngăn cản sức tiến quân của chúng. Ðường bay nhào lộn kéo tới
tận không phận quận Lái Thiêu. Cán bộ huấn luyện viên và các khóa
sinh đều đưa mắt liếc nhìn, không ai nói với ai một lời, tất cả
đã hiểu việc gì đang xảy ra.
Trung tâm huấn luyện Sư Ðoàn
chỉ chấm dứt các hoạt động huấn luyện bãi tập vào ngày 28/4/75 và
được lệnh cấm trại 100% để lo phòng thủ. Tình hình ở Sài Gòn lúc
đó quá lộn xộn và các đơn vị du kích cùng quân địa phương VC đã
xuất hiện ở nhiều nơi quanh vùng Lái Thiêu, Bình Dương. Khoảng 10
giờ đêm ngày 29/4/75, tôi đã nhìn thấy bộ binh và chiến xa của VC
đang di chuyển trên xa lộ Ðại Hàn (Sài Gòn - Bình Dương). Bộ
binh đi hai hàng dọc, kẹp sát lề đường, xen kẽ ở giữa là chiến xa
T54. Chúng chẳng thèm ngụy trang lá cây gì cả và đang di chuyển
về hướng Sài Gòn. Thình lình tiếng súng cối 81 ly của TTHL/SÐ từ
phía sau lưng bắn ra để cản bước tiến của chúng. Ðạn nổ bốc khói
mịt mù xa lộ. Chỉ trong giây lát, chiến xa và bộ binh VC đã giàn
hàng ngang tiến thẳng về phía TTHL. Những khẩu phòng không trên
pháo tháp của chiến xa địch đang nhả đạn, bỗng dưng khựng lại.
Chúng quay ngược ra xa lộ rồi tiếp tục di chuyển về hướng Sài Gòn.
Chúng đi rất vội vã, hối hả. Rõ ràng chúng đang được lệnh tránh
giao chiến dọc đường, bảo toàn lực lượng tối đa, tiến nhanh về Sài
Gòn càng sớm càng tốt. Sài Gòn vào giờ này đang hỗn loạn, miếng
mồi thơm ngon, béo bở đang đợi chờ, chúng không thể chậm trễ
được!
Khoảng 8 giờ sáng, tôi không
còn nhìn thấy một lực lượng nào của VC di chuyển nữa. Tôi vẫn
đứng ở phía ngoài phòng tuyến suy nghĩ miên man...Chúng đã lợi dụng
đêm tối, len lỏi, vượt nhanh ngang qua hông những điểm phòng thủ
chính yếu của SÐ5BB, của tiểu khu Bình Dương. Chúng đã bỏ toàn bộ
lực lượng của SÐ5BB về phía sau lưng rồi!
Bỗng tôi chợt nhớ tới câu chuyện hơn một năm về trước, khoảng
tháng 12 năm 73. Hôm ấy, như thường lệ, tới phiên trực, tôi đem
bản đồ vào phòng riêng của Tướng Vỹ vào buổi tối để ông duyệt xét
lại tình hình tổng quát mà có các chỉ thị cần thiết cho các kế
hoạch hành quân hôm sau. Thông thường, ông chỉ lướt qua 15 phút,
vì sĩ quan tùy viên đã báo cáo tình hình hàng giờ, rồi ông nói
chuyệnh linh tinh với chúng tôi. Ông người tầm thước, khoảng
165cm, hơi mập, nước da đen sạm vì nắng, giọng nói hơi ồm ồm.
Hình như ông đang bị cảm mất tiếng nên giọng nói hơi khó nghe.
Tuy nhiên, tôi vẫn còn nghe rõ từng tiếng...Ông đang tỏ vẻ vui
mừng về việc xúc tiến phòng thủ trong những tháng qua đạt kết quả
tốt đẹp. Bỗng ông tâm sự: "Tôi nghi ngờ chúng nó không đánh mình ở ngoài này mà tìm cách len lỏi đi thẳng về Sài Gòn..." Ðiều nghi ngờ của ông hôm nay đã trở thành sự thật.
Trước tình thế này, Tướng Vỹ
sẽ quyền biến ra sao? Tôi chờ đợi, nhưng tôi chợt nghĩ, tình
hình sáng hôm nay đang diễn ra trên một quy mô lớn trên toàn quốc,
đã vượt ra ngoài vùng trách nhiệm và quyền hạn của một vị Tư Lệnh
Sư Ðoàn. Ông vẫn phải chờ lệnh, vì ông là một quân nhân có kỷ
luật.
Khoảng 9 giờ sáng, TTHL vẫn còn liên lạc tốt với BTL/SÐ. Lệnh từ TT/HQ/SÐ vẫn truyền đi: "Tất cả sẵn sàng tại chỗ, chờ lệnh".
Tướng Vỹ đang chờ lệnh gì? Lệnh đánh tập kích phía sau lưng địch
hay lệnh rút lui về Vùng 4? Ông chờ lệnh ai? Vào giờ này, Tổng
Thống Tư Lệnh Quân Ðội, Thủ Tướng Chánh Phủ, Tổng TMT/QÐ, TMTL/LQ,
Tư Lệnh Quân Ðoàn, đã chạy trốn hết rồi! Các tân Tổng Thống thì
hoặc vì quá già nua, hom hem ốm yếu, hoặc vì còn đang bàng hoàng
ngơ ngác trước kẻ thù, ai đủ tư cách và uy tín để ra lệnh cho ông?
Khoảng 10 giờ sáng ngày
30-4-75, TTHL hoàn toàn mất liên lạc với BTL/SÐ (có lẽ giờ này,
Tướng Vỹ đã tự sát và BTL đang rối loạn). Chỉ huy trưởng TT/HL vô
cùng bối rối. Ông ra lệnh vắn tắt: "Di chuyển về hướng Sài Gòn".
Dẫn đầu hàng quân là các khóa sinh lớp huấn luyện thái cực đạo.
Ðoàn quân ra khỏi doanh trại chưa được 1/3, tôi đã nghe tiếng
súng nổ ròn rã ngoài chợ Lái Thiêu (Chi Khu Lái Thiêu đã rút lui
từ nửa đêm và VC đã chế ngự khu này). Trung Úy Bích, Trưởng Ban 2
TT đã bị trọng thương và lực lượng đi đầu bị thiệt hại nặng. Ðoàn
quân phải lùi vào trong doanh trại để tìm hướng đi khác. Một vài
anh em mở radio để nghe tin tức. Thình lình nghe được bản tin
của ông Dương Văn Minh trên đài phát thanh. Lúc ấy giọng ông
Dương Văn Minh nghe rất thểu não, tiếng mạnh, tiếng yếu tựa hồ
như một người sắp hết hơi. Tôi không nhớ hết nguyên bản văn; nhưng
có vài đoạn chính yếu, tôi còn nhớ rõ từng tiếng. Ðại ý bản văn
nói, để tránh một cuộc đổ máu vô ích, ông kêu gọi binh lính VC
ngừng tấn công và quân đội VNCH ở nguyên vị trí của mình vì ông
đã: "Tôi tin tưởng sâu xa vào chính sách hòa giải, hòa hợp dân tộc của chánh phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam VN" (nguyên văn) và ông tiếp: "Chúng tôi ở đây (tức Dinh Ðộc Lập) đang chờ những người anh em ở phía bên kia đến để làm lễ bàn giao..." Bản tin được lập lại nhiều lần liên tục.
Sau khi nghe xong bản tin
này, mọi người đều xôn xao nhốn nháo. Anh em khóa sinh lo sợ, trong
khi làm lễ bàn giao VC nổi hứng đòi bàn giao luôn "cái chỗ đội
nón", thế là hơn 1500 khóa sinh đủ các lớp huấn luyện, đã hè nhau
đẩy sập cả cổng chính lẫn cổng phụ, vứt súng đạn, lột bỏ quần áo,
chạy ra đường như một đàn ong vỡ tổ, trước sự ngơ ngác, bàng
hoàng của cán bộ quân trường.
Tại căn cứ phòng thủ của
Trung Ðoàn và Tiểu Ðoàn, sau khi nghe xong bản tin trên đài phát
thanh của Dương Văn Minh, anh em binh sĩ đã tự động vứt bỏ súng
đạn để chạy về nhà. Tại Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn ở Lai Khê, cái mệnh
lệnh mà Tướng Vỹ trông đợi từ nhiều ngày qua để ông thi hành hôm
nay đã đến.
Mệnh lệnh không đến bằng hệ thống
truyền tin quân đội, mà đến qua làn sóng điện của Ðài phát thanh
Sài Gòn: lệnh bàn giao! Từ ngữ nghe thật hiền lành và êm ái.
Nhưng, tự cổ chí kim, các kẻ chiến bại, sau khi bị tước đoạt hết khí
giới, thông thường thì chỉ có chết hoặc bị bắt cầm tù, chưa thấy
ai làm lễ bàn giao bao giờ. Tại sao hôm nay, ông tân Tổng Thống
miễn cưỡng lại dùng loại từ ngữ mập mờ này?
VC vẫn bao vây căn cứ ở Lai
Khê, đặt chốt ngăn chặn ở hai cổng phía Nam và phía Bắc. Chúng bắc
loa chĩa vào bên trong căn cứ, phát thanh lời kêu gọi của Dương
Văn Minh và kêu gọi Tướng Vỹ ra hàng. Ông chỉ đáp lại: "Yêu cầu các anh đối xử nhân đạo với thuộc cấp của tôi".
Lúc đó, Tướng Vỹ triệu tập một phiên họp bất thường, thật
ngắn ngủi, để giải thích cho mọi người rõ lịnh bàn giao và lịnh bắt
buông súng đầu hàng. Ông nói: "Lệnh bắt chúng ta buông súng bàn giao cho địch, nói thẳng ra là lịnh bắt chúng ta buông súng đầu hàng..." Ông phải nói thẳng vì sợ có người hiểu quanh co, mập mờ. Rồi ông tuyên bố: "Vì
tôi là một Tướng Chỉ Huy mặt trận, tôi không thể thi hành được
lịnh này. Tôi nghĩ thân làm Tướng là phần nào đã hưởng vinh dự và
ân huệ của quốc gia hơn các anh em nên tôi phải chọn lấy con đường
đi riêng cho tôi". Ðoạn ông bình tĩnh bước ra sân nghiêm trang
đứng dưới cột cờ của Bộ Tư Lệnh, tự sát bằng chính khẩu súng chỉ
huy của mình.
Tôi không được chứng kiến cảnh Tướng Vỹ tự sát và những diễn
biến ở Lai Khê, chỉ viết theo lời tường thuật của anh bạn lúc tôi
làm việc tại TTHQ. Tình cờ tôi gặp lại anh ít lâu sau đó. Trung Úy
Khang, người sĩ quan trẻ tuổi, có rất nhiều nghị lực và rất giỏi
môn võ Không Thủ Ðạo. Anh được tuyển chọn là sĩ quan tùy viên
kiêm cận vệ của Tướng Vỹ.
Con đường Tướng Vỹ chọn lựa ngày hôm nay đã có Hoàng Diệu,
Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Lãm và nhiều vị anh hùng khác lựa chọn
ngày trước. Ông đã xin nối gót. Ông không đi đơn độc một mình, vì
vào giờ này, khắp nơi trên đất nước, đồng đội của ông, nhiều
người cũng đang đi trên con đường như Phạm Văn Phú, Trần Văn Hai,
Lê Văn Hưng, Nguyễn Khoa Nam, Hồ Ngọc Cẩn, v.v...
Ðược biết ngày nay, đồng bào và chiến sĩ trong nước đã suy tôn ông là Anh Hùng Dân Tộc. Và trong hàng ngũ của những người đang đấu tranh lật đổ bạo quyền ở trong nước, có đơn vị đã mang tên ông: Chiến Ðoàn Lê Nguyên Vỹ.
Tướng Lê Nguyên Vỹ: Từ Miền Tây Đến Căn Cứ Lai Khê
Trước tháng 7/1954, sĩ quan
Lê Nguyên Vỹ đã theo học khóa Nhảy Dù tại Pháp. Trong thập niên
60, ông lần lượt giữ các chức vụ chỉ huy: đại đội trưởng, tiểu đoàn
trưởng, trung đoàn trưởng. Năm 1969, ở cấp bậc đại tá, ông là
Trung đoàn trưởng Trung đoàn 8/Sư đoàn 5 Bộ binh (BB). Vào giữa
năm 1971, ông giữ chức Tư lệnh phó Sư đoàn 5 BB. Năm 1973, ông là
Tư lệnh phó Sư đoàn 21 BB. Ngày 7 tháng 11.1973, ông được bổ
nhiệm giữ chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 5 BB thay thế Chuẩn tướng Trần
Quốc Lịch khi ông còn mang cấp đại tá (ông được thăng chuẩn tướng
gần 1 năm sau). Về lại Sư đoàn 5BB, Tư lệnh Lê Nguyên Vỹ đã trở
về với đại đơn vị mà ông đã có nhiều năm gắn bó. Trong năm 1969,
ông đã chỉ huy trung đoàn 8/Sư đoàn 5 BB lập nhiều chiến công tại
chiến trường Miền Đông Nam phần.
* Tư lệnh Sư đoàn 5 BB Lê Nguyên Vỹ tại căn cứ Lai Khê
Nhận chức Tư lệnh Sư đoàn 5 BB vào thời gian Cộng quân gia
tăng hoạt động quân sự tại các tỉnh Bình Dương, Bình Long, Phước
Long, thuộc vùng trách nhiệm của Sư đoàn 5 BB, Tướng Lê Nguyên Vỹ
đã phải đương đầu với hoàn cảnh vô cùng khó khăn, vừa phải lo
đối phó ngăn chận các cuộc tấn công CSBV vào các vị trí trọng yếu
do Sư đoàn 5 BB đảm trách, vừa phải lo củng cố và phát triển hiệu
năng tác chiến của các đơn vị trực thuộc. Vị tư lệnh cuối cùng
của Sư đoàn 5 BB đã làm việc không kể giờ giấc ngày đêm. Hết họp
bàn kế hoạch hành quân tại bộ Tư lệnh Sư đoàn, ông lại bay đến
các trung đoàn, tiểu đoàn kiểm tra hệ thống phòng thủ, đôn đốc
quân sĩ đào chiến hào, đắp công sự chiến đấu và các cụm chướng
ngại vật để ngăn chận chiến xa CSBV khi địch mở cuộc tấn công với
xe tăng và bộ binh phối hợp.
Trong ba tháng đầu của năm
1975, sau khi CSBV tấn công cường tập đánh chiếm Phước Long vào
tháng 1/1975, Tướng Lê Nguyên Vỹ đã tái phối trí lực lượng để giữ
cụm phòng tuyến Chơn Thành. Đến giữa tháng 4/1975, quận Chơn
Thành bị bỏ ngỏ, căn cứ Lai Khê được xem như phòng tuyến tiền
đồn. Trong tình hình đó, vị Tư lệnh Quân đoàn 3 lúc bấy giờ là
Trung tướng Nguyễn Văn Toàn đã bay lên Lai Khê họp bàn với Chuẩn
tướng Lê Nguyên Vỹ. Trung tướng Toàn nói với Tướng Vỹ là nên di
chuyển bộ Tư lệnh về Phú Lợi, Bình Dương, và chỉ nên để một trung
đoàn ở lại phòng thủ căn cứ Lai Khê. Trước ý kiến của vị Tư lệnh
Quân đoàn 3, Chuẩn tướng Vỹ trình bày: “Nếu tôi di chuyển đi Phú
Lợi, anh em binh sĩ sẽ nói mình “Đi di tản chiến thuật hay sao?
Do đó, tôi quyết ở lại Lai Khê sống chết với nơi này.”
Ngày 28 tháng 4/1975, Chuẩn
tướng Vỹ chỉ thị cho vị Tư lệnh phó Sư đoàn 5 BB là Đại tá Trần
Văn Thoàn chỉ huy bộ Tư lệnh nhẹ Sư đoàn 5 BB, cùng với Trung đoàn 8
BB mà trung đoàn trưởng là Trung tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng và Chi
đoàn 3/1 Thiết kỵ di chuyển về Phú Lợi. Cũng trong buổi sáng ngày
28/4. Tướng Vỹ nói với quân sĩ các cấp: “Các anh em ai có thể
cho vợ con đi nước ngoài được thì cho đi, còn các anh ở lại với
tôi. Tôi cũng vậy, cùng ở lại bên cạnh các anh.”
Chiều ngày 29/4, sau cuộc họp tham
mưu thường lệ tại phòng họp của bộ Tư lệnh Sư đoàn 5 BB, vào 7
giờ tối, các đơn vị của Sư đoàn 5 BB được lệnh của bộ Tư lệnh Quân
đoàn 3 là phải bỏ Lai Khê di chuyển về Bình Dương. Theo kế hoạch,
tất cả quân dụng hư hỏng và giấy tờ không quan trọng phải thiêu
hủy tại chỗ. Do đó, tối 29/4, cả căn cứ Lai Khê có từng đám cháy
đỏ rực. Cùng với căn cứ Lai Khê, khu vực Phú Giáo ở xa cũng có
từng đám lứa như thế do lực lượng phòng thủ tại Phú Giáo cũng di
tản.
Lúc bấy giờ, Trung tá Nguyễn
Minh Tánh, Thiết đoàn trưởng Thiết đoàn 1 Kỵ binh, được báo tin
CQ đặt chốt ở xã Mỹ Thạnh phía Nam Bến Cát, ông xin với Tư lệnh Sư
đoàn 5 BB cho điều động chiến xa đi giải tỏa thế nhưng Tướng Vỹ
nói ban đêm khó phối kiểm, để đến sáng sẽ tính. Trung tá Tánh gọi
máy về hậu cứ đang đóng tại Trại Phù Đổng (Bộ chỉ huy Thiết
Giáp) Gò Vấp hỏi tình hình ở vòng đai Sài Gòn. Trong điện thoại
Trung tá Tánh nghe cả tiếng súng nổ văng vẳng, và tiếng động cơ
của các trực thăng. Trung tá Tánh cũng được biết bộ Tư lệnh Quân
đoàn 3 đã di chuyển về Phù Đổng( Trung tướng Toàn vẫn kiêm nhiệm
chức vụ Chỉ huy trưởng Thiết Giáp khi giữ chức Tư lệnh Quân đoàn 3
thay thế Trung tướng Dư Quốc Đống xin từ chức sau khi Phước Long
thất thủ vào tháng 1/1975).
Trung tá Nguyễn Minh Tánh đã
báo tin này cho Tướng Vỹ. Trước đó, theo lời của Trung tá Tống
Mạnh Hùng, một trong những sĩ quan cao cấp của bộ Tư lệnh Sư đoàn 5
BB, thì Tướng Vỹ đã gọi điện thoại về bộ Tư lệnh Quân đoàn 3
nhưng không ai trả lời, ông tức giận nói: “Tụi nó chạy trốn cả
rồi.”
* Những giờ cuối cùng của Anh hùng Lê Nguyên Vỹ
Đêm 29 tháng 4/1975 là đêm
dài nhất cho tất cả quân sĩ Sư đoàn 5 BB đang còn ở lại Lai Khê.
Các vị trí tiền đồn báo cáo từng đoàn quân xa của CSBV đủ loại di
chuyển nhưng đi vòng tránh căn cứ Lai Khê. Sáng ngày 30 tháng
4/1975 vào lúc 7 giờ, tất cả sĩ quan ngồi họp tại Phòng họp Hành
quân của Bộ Tư lệnh Sư đoàn. Vừa họp xong, Đại úy Nguyên, chánh
văn phòng Tư lệnh, tới báo cáo là 10 giờ Tổng thống Dương Văn
Minh sẽ đọc bài diễn văn quan trọng liên quan đến tình hình.
Tướng Lê Nguyên Vỹ bảo các Sĩ quan ngồi chờ tại chỗ bên cạnh chiếc
radio và tách cà phê nóng. Đúng giờ, mọi người đều nghe bài phát
thanh của ông Dương Văn Minh. Khi nghe lệnh tiếp theo của Chuẩn
tướng Nguyễn Hữu Hạnh, người được ông Dương Văn Minh cử làm phụ
tá cho Trung tướng Vĩnh Lộc (Tổng tham mưu trưởng được bổ nhiệm vào
ngày 29/4), thì Tướng Vỹ ra lệnh cho Trung tá Nguyễn Tấn Văn,
treo cờ trắng trước cổng trại, rồi ông cho triệu tập tất cả các sĩ
quan, quân nhân tại bộ Tư lệnh để giải thích cho mọi người rõ về
lệnh của ông Dương Văn Minh.
Theo lời kể của một số sĩ quan có mặt lúc đó, bằng giọng nói
cương quyết, tướng Vỹ nói: “Lệnh bắt chúng ta buông súng bàn giao
cho địch, nói thẳng ra là bắt chúng ta buông súng đầu hàng. Riêng
với tôi, là một tướng chỉ huy mặt trận, tôi không thể thi hành
được lệnh này. Từ nay, tôi không còn chỉ huy các anh em nữa, các
anh em tự lo liệu lấy”. Sau đó, tướng Vỹ cho tìm bác sĩ Hiếu,
Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 5 Quân Y, có lẻ ông định tìm
thuốc độc tự tử, nhưng bác sĩ Hiếu đã lánh mặt. Các sĩ quan thân
cận quanh tướng Vỹ tìm cách dấu hết súng vì sợ vị tư lệnh tự tử.
Các sĩ quan cùng nhau khuyên ông, nhưng ông lại yêu cầu mọi người
rời khỏi căn cứ, đừng đợi Việt Cộng vào.
Trước khi vĩnh biệt các sĩ
quan trong bộ Tư lệnh , tướng Vỹ đã mời mọi người sang nhà riêng ăn
cơm chung. Vừa lùa xong chén cơm một cách vội vã, trong khi mọi
người đang ăn thì tướng Vỹ đi nhanh vào “trailer”. Hai tiếng súng
nổ chát chúa, mọi người bỏ đủa chạy vào thì thấy Tướng Vỹ nằm
trên vũng máu. Dù tất cả các súng đã giấu kỹ nhưng còn khẩu súng
Beretta 6.35 để trong trailer thì không ai ngờ đến. Vào giây phút
đó, quanh Tướng Vỹ có Đại tá Từ Vấn, Tham mưu trưởng Sư đoàn,
Trung tá Tống Mạnh Hùng và một số sĩ quan tham mưu. Mọi người đã
thay quần áo cho vị Tư lệnh, và đứng nghiêm chào vĩnh biệt vị chủ
tướng anh hùng. Tướng Vĩnh ra đi ở tuổi 42. (Một bài viết của
ông Thanh Sơn, dựa theo theo lời kể một số bạn bè, đăng trong
KBC, lại ghi rằng: sau khi nói chuyện xong với anh em quân nhân Sư
đoàn 5 Bộ binh, tướng Vỹ bước ra sân đứng nghiêm dưới cột cờ của
bộ Tư lệnh, rồi tự sát bằng khẩu súng lục chỉ huy của mình).
Trung tá Nguyễn Minh Tánh kể lại rằng khi ông dẫn các Thiết
giáp xa cơ hữu đến bộ Tư lệnh Sư đoàn 5 BB để đón Đại tá Nguyễn
Mạnh Tường và Trung tá Tống Mạnh Hùng (hai sĩ quan này cùng khóa 5
Thủ Đức với Trung tá Tánh) như đã hứa trước. Vừa đến nơi thì
Trung tá Hùng chạy ra nói: “Anh vào chào Chuẩn tướng Tư lệnh đi,
người đã tự sát rồi.” Trung tá Tánh nghe Trung tá Hùng báo tin thì
lòng ông vô cùng xúc động. Ông đứng chỗ trailer nhìn vào thì
thấy vị Tư lệnh đáng kính của mình nằm yên trong quân phục tươm
tất, có huy chương trên túi áo, và hai tay xếp trên bụng. Một
viên đạn súng Beretta 6.35 ly trổ từ dưới cằm lên đỉnh đầu. Trung
tá Tánh và các sĩ quan thuộc cấp vội chào kính vĩnh biệt người
người anh cả của Sư đoàn 5 Bộ binh, một anh hùng của Quân Lực
VNCH.
“Chiều ấy Lai Khê u uất lắm
Đất trời cây cỏ ngập màu tang
Khi người nằm xuống, Người nằm xuống
Ta đã mất rồi! Mất Việt Nam.
Sáng Ba Mươi giặc tràn Phú Lợi
Quân ta về trấn thủ Bình Dương
Ta vẫn nghe tiếng Người trong máy
Lòng trung Tổ Quốc vẫn vang vang
… Đồi Bam-mốt Sư Đoàn bị bức tử
Đêm ba-mươi vang vọng những hồn oan
Bao nhiêu năm! cờ tang chưa xả
Sống lưu đày lòng đau nhục mang mang
Trời Tháng Tư vẫn nghẹn ngào trong nắng
Hởi hồn Người! Còn vang tiếng Việt Nam.
(Tưởng nhớ Tướng Lê NguyênVỹ) - Đăng Nguyên.
( Ngoại trừ bài thơ "Tưởng
Nhớ Lê Nguyên Vỹ" của ĐN, tài liệu "Tướng Lê Nguyên Vỹ: Từ Miền
Tây Đến Căn Cứ Lai Khê" biên soạn dựa theo tài liệu tạp chí KBC,
hồi ký của cựu Trung tá Nguyễn Minh Tánh, tài liệu của cựu Thiếu
tá Trương Dưỡng, và của Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ ). (tác giả Vương Hồng Anh)
TƯỚNG LÊ NGUYÊN VỸ CHẾT THEO THÀNH
NGUYỄN VĂN HẢI, M.A
Cựu SVSQ/K21 Trường VBQGVN
Cựu Thiếu tá Quận Trưởng Quận Phú Giáo, Tỉnh Bình Dương (VNCH)
Kính dâng Anh Hồn Tướng Lê Nguyên Vỹ
Kính tặng các chiến sĩ Quân Lực VNCH.
Các bạn thân của tôi thường
nhắc tôi viết về Tướng Lê Nguyên Vỹ, Cựu Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh.
Mọi người Việt Nam đều biết Tướng Vỹ đã tự sát để đền nợ nước
tại Bộ Tư Lệnh SĐ5BB ở Lai Khê Bến Cát, tỉnh Bình Dương vào ngày
30 tháng 4 năm 1975. Nhưng các bạn tôi cho rằng đến bây giờ mọi
người chắc chỉ biết về hành động anh hùng của Tướng Vỹ và mọi
người rất cần biết thêm nữa về ông. Sở dĩ các bạn tôi quay sang đề
nghị tôi viết về ông bởi vì họ biết tôi là người làm việc với
ông từ khi mới ra trường Đà Lạt, từ là một Trung đội trưởng của
Trung đoàn 8 BB mà Trung tá Lê Nguyên Vỹ là Trung đoàn trưởng,
rồi lên dần đến Tiểu đoàn Trưởng của SĐ5BB và Đại tá Lê Nguyên Vỹ
là Tư Lệnh Phó, cuối cùng là Tư Lệnh SĐ5BB.
Nói như vậy, tôi chắc chắn
chỉ có thể viết một phần nào về con người làm việc của Tướng Vỹ
qua những lần tiếp xúc với ông, nhận lệnh và thi hành lệnh của ông,
còn cuộc đời riêng tư của ông tôi hoàn toàn không biết gì cả.
Tuy thế viết đến những dòng chữ này, tôi cảm thấy rất hãnh diện
vì đã có thời gian thật dài làm việc dưới quyền Tướng Vỹ và tri
ơn ông, bởi ông là người giới thiệu tôi đi làm Quận Trưởng Quận
Phú Giáo, Tỉnh Bình Dương. Hơn thế nữa ông lại thường hãnh diện
xác nhận với nhiều người trước đây rằng chính ông là người từng
chỉ huy tôi từ lúc tôi mới ra trường, làm Trung đội trưởng của
Trung đoàn 8BB, mỗi khi ông có dịp nói một điều gì về tôi. Tôi
không hãnh diện sao được khi tôi được phục vụ dưới quyền của một
vị Tướng Anh Hùng, của một Trần Bình Trọng, của một Nguyễn Tri
Phương bất khuất trước quân thù, lấy thân mình để đền nợ nước!
VÀI NÉT ĐÁNG GHI NHẬN TỪ TƯỚNG VỸ
Tướng Vỹ là người trực và
nóng tính, hăng say làm việc và học hỏi. Ngoài Việt Cộng là kẻ thù
không đội trời chung với Tướng Vỹ, về phía Quốc Gia chắc cũng có
một số người không thích ông, có thể cả ngay bây giờ là lúc tôi
đang viết về ông đây. Tuy nhiên đây cũng phản ảnh được ý ông là
nặng thà để người ta ghét, nhưng ông không bao giờ muốn người ta
khinh ông.
Tướng Vỹ nói giỏi hai ngoại
ngữ Pháp và Anh văn, sau này ông học thêm chữ Trung Hoa, nhưng
ông chỉ biết đọc, viết mà không nói được. Ông học theo lối học chữ
Nho của các cụ ta hồi xưa. Ông kể lại cho tôi nghe, khi được Quân
Đoàn 3 cho qua Đài Loan du lịch, mỗi khi vào tiệm ăn ông phải
viết lên giấy các món ăn. Ông có công đầu trong trận An Lộc vào
mùa hè đỏ lửa 1972, chính tay ông đầu tiên đã dùng súng M72 bắn
chặn đứng được chiến xa của VC tấn công vào An Lộc, kích động lại
tinh thần chiến đấu của các đơn vị tham chiến VNCH lúc bấy giờ.
Trước khi Tổng Thống Thiệu lên An Lộc, Tướng Vỹ được trực thăng
bốc về Lai Khê để được thưởng “du ngoạn Đài Loan”. Còn việc lên
lon, gắn Bảo Quốc Huân Chương hoặc các huy chương khác phải nhường
lại cho những người khác. Nghe nói Tướng Vỹ không được gặp Tổng
Thống Thiệu vì ông không nằm trong “BĂNG” lúc bấy giờ. Trước khi
được trực thăng bốc về Lai Khê, Tướng Vỹ có ghé thăm chỗ đóng quân
của tôi, tôi có con gà làm cơm mời ông ăn cơm trưa. Cũng vì bữa cơm
tiễn chân ông mà tôi bị người ta gán cho là thuộc “BĂNG” Đại Tá
Vỹ lúc bấy giờ. Tuy nói ông là người trực và nóng tính, nhưng sau
vụ khen thưởng bất công của Tổng Thống Thiệu tại An Lộc, ông
không hề bày tỏ ý kiến bất mãn hoặc chê bai ai cả, ông coi như
không có gì xảy ra. Ông lại tỏ ra rất vui và hãnh diện khi có
người vẽ tặng ông một bức tranh mô tả ông đang dùng súng M72 ngắm
bắn chiến xa VC tại mặt trận An Lộc.
Ông dùng nhiều thời giờ vào
việc nghiên cứu các trận đánh hoặc học chữ Nho. Tướng Vỹ thường
khuyên tôi cần phải ghi danh học Đại học để có bằng cấp, sau này
nếu tôi có làm lớn không bị chê là võ biền. Tôi theo lời khuyên
của ông nên bắt đầu trở lại học college vào tuổi 50 ở đất Mỹ này,
thời gian trong tù VC tôi cũng dấu sách học tiếng Trung Hoa để
đọc được chữ Tàu, nhưng tôi cũng giống ông làm “Tàu câm”, vì tôi
cũng không học nói tiếng Trung Hoa.
Tướng Vỹ rất thích người nào
thực sự làm việc, còn người nào hay báo cáo láo, thoạt đầu ông có
thể tin, nhưng nếu sau ông khám phá ra là báo cáo giả thì người
báo cáo rất khó làm việc với ông. Bởi trong buổi họp nào những
người lười biếng hay báo cáo láo thường được ông đưa ra làm ví dụ
để răn đe những người khác.
Tướng Vỹ có trí nhớ rất dai,
nhất là những lệnh ông đã ban ra, ông luôn theo dõi việc thi hành
lệnh ra sao của thuộc cấp. Trước khi ông đề cử tôi đi làm Quận
trưởng Phú Giáo, ông đã bí mật gọi những người tôi cho về phục vụ
ở trại gia binh Trung đoàn 8. Tôi còn nhớ khi ông còn làm Trung
đoàn trưởng Trung đoàn 8BB, Đại tá Vỹ đã có văn thư gửi cho các
Đại đội của Trung đoàn, chọn 3 hoặc 4 người lính tốt, đã từng bị
thương ở chiến trận được ưu tiên về phục vụ tại trại gia binh của
Trung đoàn ở Bình Dương. Tôi được những người lính mà tôi đã cho
về phục trại gia binh (theo lệnh của Tướng Vỹ) khoảng 7 năm
trước đó, nói lại rằng đích thân tướng Vỹ gọi từng người vào đập
bàn, đập ghế để cướp tinh thần họ và hỏi xem những người này đã
phải nộp cho Thiếu tá Hải (lúc đó tôi là Trung úy Hải, ĐĐT Đại đội
5/TĐ2/8) bao nhiêu tiền để được về phục vụ tại trại gia binh?
Giả thử tôi đã không đứng đắn trong việc thi hành lệnh của ông cách
đó 7 năm, thì bao nhiêu cố gắng trước của tôi cũng coi như đổ
biển hết. Khi đụng trận, ông thường xuyên mở máy theo dõi tới cấp
Trung đội, Đại đội để xem chúng tôi điều động quân như thế nào.
Làm việc dưới quyền ông, các đơn vị phải luôn sẵn sàng ở vị trí
chiến đấu, mọi bất cẩn gây thiệt hại cho binh sĩ, đơn vị đều
không được chấp nhận. Khi thăng thưởng cho thuộc cấp Tướng Vỹ
cũng làm hết lòng ông và nhất là không đòi hỏi một điều kiện gì,
tiền bạc hoặc quà cáp chẳng hạn. Với ông muốn lên lon, lên chức
nhanh thì điều kiện duy nhất là phải làm việc giỏi và đánh giặc
giỏi.
Tướng Vỹ là cấp chỉ huy về
chiến thuật rất giỏi ông thường nghĩ cách đánh lừa địch dễ như
chơi. Kế hoạch rút quân khỏi Bình Long của ông đã chứng tỏ ông có
khả năng vẹn toàn chỉ huy từ tấn công đến lui binh. Sau cuộc rút
quân đầy máu và nước mắt tại Đại lộ KINH HOÀNG của Quân khu 2,
nhiều người lầm tưởng rằng các cấp chỉ huy chiến thuật của Quân
Lực VNCH chỉ biết chỉ huy tấn công mà không biết rút quân. Cuộc
rút quân khỏi Bình Long của Tướng Vỹ là câu trả lời đích đáng cho
những lời nhận xét sai lầm trên. Theo lệnh của Tướng Vỹ, cuộc rút
quân khỏi Bình Long đã được giữ bí mật cho đến lúc hoàn tất. Sự
liên lạc của các đơn vị qua máy truyền tin được đặc biệt giới hạn,
mã hóa. Trong khi rút quân, trực thăng vẫn ồ-ạt chuyên chở những
khẩu súng pháo binh và đạn dược vào Bình Long. Những ổ quan sát
của VC quanh Bình Long chắc chắn đã thông tin cho cấp chỉ huy của
chúng là Bình Long đang được tăng viện quân và vũ khí, đạn dược,
cho đến khi VC biết được sự thật Bình Long đã bị bỏ trống thì đã
muộn. Bởi vì những khẩu pháo binh trực thăng vận vào Bình Long
kia toàn là súng giả làm bằng giấy!
Tôi xin kể thêm một trận đánh rất ngoạn mục ở Phú Giáo, cũng
nói lên tài đánh lừa địch của Tướng Vỹ. Khi tôi mới về làm Quận
trưởng Phú Giáo được khoảng một tháng thì VC mở một cuộc tấn công
đại quy mô vào Phú giáo và Bến Cát, tỉnh Bình Dương. Tướng Vỹ
đoán biết trước được ý định của địch quân, nên ông đã bí mật dấu 6
khẩu pháo binh trong vườn mía tại Tân Hưng, xã Tân Bình của Phú
Giáo. Khi VC mở ồ- ạt hai mũi tấn công, một vào quận Bến Cát do
SĐ18BB trách nhiệm, một vào Phú Giáo (ngay cầu sông Bé). Quận Bến
Cát bị VC tràn ngập xã An Điền, còn đơn vị giữ cầu sông Bé của
tôi cũng đang hấp hối gọi tôi xin pháo binh bắn yểm trợ ngay trên
đầu họ. Các ổ pháo binh của Phú Giáo, Bình Dương và ngay cả ở Lai
Khê của SĐ5 hầu như bị tê liệt, bởi các khẩu pháo của VC (VC bao
giờ cũng nghiên cứu kỹ vị trí pháo binh của ta trước các trận
đánh) đang bắn dữ dội khóa họng các ổ pháo của ta. Trong giây
phút thập tử nhất sinh, VC đã tràn lên cầu sông Bé, Tướng Vỹ đã
ra lệnh 6 khẩu pháo binh dấu tại Tân Hưng (không nằm trong danh sách
phải khóa họng của VC) đồng loạt khai hỏa hàng ngàn quả lên đầu
giặc đang xung phong lên chiếm cầu. Trận đánh này tôi cũng phải
“liều thân tranh đấu”, mặc thường phục lẫn lộn với đám dân chạy
loạn, lọt được vào cầu sông Bé để tổ chức lại đơn vị Địa Phương
Quân giữ cầu đang hấp hối ở đây, mà sau đó Tướng Vỹ đã gọi máy
nói đùa với tôi rằng “Tao nghe mày xuống cầu sông Bé để sắp xếp
lại đơn vị, tao sợ cho mày mà muốn đái cả ra quần” (xin chân thành
cáo lỗi với độc giả vì đã trích lời nói tục của Tướng Vỹ,).
Tướng Vỹ không thích văng tục, cọc cằn như các cấp chỉ huy khác,
nhưng ông thích nói tiếu lâm, đôi khi tiếu lâm của ông cũng hàm ý
châm biếm nhẹ.
THÊM VÀI KỶ NIỆM VỚI TƯỚNG LÊ NGUYÊN VỸ
Tháng 7 năm 2006, tôi và bà
xã cùng con gái, cháu trai ngoại tôi qua Nam Cali dự Đại hội Võ Bị
Đà Lạt K21. Nhân dịp này tôi đã được gặp một Niên Trưởng cấp
Tướng, là Trung đoàn trưởng cũ của tôi. Gặp ông ở chung một khu
khách sạn, mới đầu ông không nhận ra tôi, nhưng sau khi tự giới
thiệu thì ông mới nhớ ra và nói với mấy người bạn cùng khóa của
tôi rằng “anh Hải cũng là người hùng ở trận An Lộc đấy”. Sau khi
nghe ông nói vậy, tôi thật chẳng có tí phản ứng hãnh diện gì cả,
bởi đó chỉ là câu nói xuông, “great, wonderful” của người Mỹ. Tuy
không được vui lắm với câu khen xuông của ông, nhưng tôi vẫn
điềm tĩnh, xin phép ông chạy vào phòng gọi bà xã tôi ra để chào
ông cho đủ lễ nghĩa của một đàn em đối với đàn anh. Sau vài câu
giới thiệu và chào hỏi xã giao, không hiểu ngẫu hứng làm sao, ông
lại nói một câu rất là trịch thượng, câu nói của một người có quyền
uy thuở trước, chắc để lấy le với vợ tôi chăng?: “Khi còn là Tư
lệnh Sư Đoàn, tôi thấy Tiểu đoàn trưởng nào làm lâu rồi, tôi đều
cho đi làm Quận trưởng”. Đến lúc này thì tôi muốn nhịn cũng không
nổi rồi, định mở miệng hỏi ông một câu cho ra lẽ. Nhưng chợt liếc
thấy vợ tôi nháy mắt ra dấu im; tôi lại đành câm miệng hến –
chắc do bản tính sợ vợ của tôi - bởi vợ tôi không muốn tôi phá vỡ
cảnh gặp gỡ thân mật này!
Đến khi vào phòng vợ tôi hỏi tôi: “lúc nãy anh muốn nói gì mà mặt mày anh đỏ gay lên vậy?
Tôi trả lời: “anh định hỏi ông ta rằng cho đi làm Quận trưởng như vậy có phải đóng tiền không?”
Qua đất Mỹ này từ năm 1991, tôi rất ít khi đi dự hội hè, tiệc
tùng gì. Ngoài mấy kỳ đi dự Đại hội khóa, tôi chỉ có hai lần theo
chân vợ đến nhà hai người bạn học Trưng Vương cũ của vợ tôi để ăn
cơm thân mật bạn bè và tân gia. Nhưng cả hai lần mỗi khi chủ nhà
giới thiệu đến tôi và nhắc rằng trước đây tôi đã làm Quận trưởng
thì đều bị các thực khách khác cười ồ lên, có người còn muốn làm
bẽ mặt tôi hơn bằng cách đặt câu hỏi:
“Tôi hỏi thật anh Hải đi làm Quận trưởng trước đây, anh phải đóng hụi chết bao nhiêu tiền vậy?
Đối với những câu hỏi móc lò,
tôi luôn điềm tĩnh trả lời rất gọn:” Đất nước mình trước đây thực
sự có việc mua quan bán tước, nhưng cũng có những trường hợp
không phải mua, đâu phải ai cũng giống ai”.
Có vài thực khách không tin vào câu trả lời của tôi nên đã mạnh dạn
kể đích danh những người đi làm Quận trưởng phải hối lộ cho các
Tỉnh Trưởng, Tư lệnh Sư đoàn, Quân đoàn như thế nào và bao nhiêu?
Tôi còn nhớ rõ, một ngày của tháng 3 năm 1974, tôi đang dẫn tiểu
đoàn hành quân trong rừng, anh lính truyền tin Tiểu đoàn dừng lại và
đưa ống nghe cho tôi để nói chuyện với Trung đoàn trưởng, Trung
tá Vuợng.
Trung tá Vượng qua máy truyền tin nói với tôi:”báo cho Hải một tin mừng là Tư Lệnh Sư đoàn chọn Hải đi làm Quận trưởng”
Thay vì tôi phải hỏi lại ông
là cho tôi đi làm Quận trưởng quận nào, tôi lại đặt điều kiện với
Trung tá Vượng rằng:”cho tôi đi làm thì tôi làm, nhưng tôi xin nói
trước là tôi không có tiền bạc đóng góp đâu nhé”
Nghe tôi nói vậy, Trung tá Vượng hét lên trong máy:” ông Tư
Lệnh nếu mở tần số này và nghe mày nói thế này, thì mày sống không
nổi với ông ấy đâu”
Tôi nhấn mạnh thêm lần nữa: “tôi nói thật là tôi không có tiền đâu”
Trung tá Vượng muốn nổi điên,
hét to hơn nữa trong máy:”không có tiền bạc gì cả”. Rồi ông cúp
máy không thèm nói chuyện với tôi nữa. Như vậy trong ngày đầu tiên
được đề cử đi làm Quận trưởng, tôi chưa biết mình sẽ đi coi quận
nào nữa. Vài ngày sau được trực thăng bốc về BCH Trung đoàn, lúc
đó tôi mới biết tôi được đề cử đi coi quận Phú Giáo. Trước khi
lên đường đi nhận nhiệm vụ mới, tôi còn đặt điều kiện với Trung
đoàn trưởng là phải cho Đại úy Lạc khóa 22 Đà Lạt, đàn em của tôi
được thay tôi, nếu không tôi sẽ không đi làm Quận trưởng.
Đó là sự thực việc tôi được
cử đi làm Quận trưởng quận Phú Giáo. Hôm nay tôi cũng xin thành
thật xin lỗi Tướng Vỹ vì đã nghi oan sự đứng đắn của ông khi đề cử
tôi đi làm Quận trưởng. Tôi nghĩ rằng hôm nay tôi xin lỗi ông
chắc ông mới biết, bởi vì Trung tá Vượng cũng thương tôi nên
chẳng bao giờ tiết lộ cho ông biết về những phản ứng vô lễ của
tôi khi Trung tá Vượng thông báo tin vui cho tôi.
Tôi là người biết Tướng Vỹ mà
còn nghi oan sự đứng đắn của ông, huống hồ gì những người khác,
nhất là những người không thích ông. Bởi vì ngay khi tôi về làm
Quận trưởng Phú giáo được khoảng một hoặc hai tháng thì Bộ Tổng
Tham Mưu đề cử một vị Đại tá xuống điều tra tôi ngay. Tôi gặp
phái đoàn điều tra tại hậu cứ Trung đoàn 9, Sư đoàn 5BB. Vị Đại
tá điều tra đã nói với tôi rằng:
- Có người đã viết đơn tố cáo ông Tư Lệnh Sư đoàn 5BB cho
Thiếu tá Hải đi làm Quận trưởng để làm kinh tài cho ông. Vậy Thiếu
tá Hải hãy khai thật anh đã nộp cho ông Vỹ bao nhiêu tiền để được
đi làm Quận trưởng và đã kiếm được bao nhiêu tiền cho ông Vỹ rồi.
-
Tôi đề nghị ngay với vị Đại
tá điều tra:” Tôi mới về làm Quận trưởng, nếu đã đóng tiền cho ông
Vỹ chắc chắn bây giờ tôi chưa kiếm đủ vốn. Vậy tôi đề nghị Đại tá
hãy cho ngưng chức tôi để công việc điều tra của Đại tá được dễ
dàng, nếu không có thể tôi lại dùng quyền hành ngăn cản việc khai
báo của những thuộc cấp dưới quyền tôi.
Sau khi nghe tôi tự nguyện xin thôi việc, vị Đại tá lập tức hủy bỏ cuộc điều tra!
Không biết tôi có chủ quan hay không, nhưng tôi có cảm tưởng
Tướng Vỹ có khuynh hướng muốn huấn luyện tôi thành một sĩ quan
hiện dịch mỗi ngày được hoàn hảo hơn. Những lúc được rảnh rỗi qua
thăm ông, ông thường bảo tôi ở lại ăn cơm với ông, trong bữa cơm
ông thường nói cách điều quân của ông cho tôi nghe và học hỏi,
ông bắt tôi đặt câu hỏi hoặc ông hỏi tôi. Nếu tôi trả lời đúng ý
ông thì ông gật- gù rất thích thú. Ông cũng muốn những vị sĩ quan
quanh ông mến tôi, nên ông thường khen tôi trước mặt họ: “Hải là
vua mìn bẫy”, ông kể cho người khác nghe cách phục kích mìn bẫy
của tôi từ khi tôi còn là Đại đội trưởng, có tuần tổng số VC bị
Đại đội 5 của tôi giết còn hơn cả tổng số Trung đoàn giết VC. Khi
về làm Quận trưởng, tôi xử dụng toán thám báo quận phục kích đặt
mìn phá hủy được 2 hoặc 3 chiếc xe vận tải chở vũ khí, tiếp liệu
của VC trong mật khu Rang-Rang, giáp ranh với tỉnh Long Khánh,
ông cho trực thăng đón tôi qua gặp ông ngay sáng sớm.
Trong bữa điểm tâm, ông nói
với tôi:”Moa nghe toa không muốn làm Quận trưởng nữa, nếu toa về
lại Sư đoàn moa sẽ để toa làm Trung đoàn trưởng hoặc Trung đoàn
phó”. Tôi lúc bấy giờ là thằng háo danh, nghe “Trung đoàn trưởng”
thì vừa tai, nhưng nghe tới “Trung đoàn phó” thì tôi thối lui
ngay. Nhưng tôi chỉ cười, không tỏ ý muốn hay không muốn về lại
Quân đội. Lúc đó tôi nghĩ mà không nói ra rằng “thời gian làm phó
của Thiếu Tướng trước kia đã mai một tên tuổi của Thiếu Tướng,
sao ông lại còn muốn tôi về Sư đoàn 5 để làm Trung đoàn phó”. Mặc
dầu tôi biết nếu tôi về làm Trung đoàn phó cho Trung tá Vượng,
Trung đoàn Trưởng Trung đoàn 7 thì chẳng bao lâu tôi cũng sẽ được
thay Trung tá Vượng. Trung tá Vượng theo tôi được biết đang chờ
lên Đại tá vào ngày Quân Lực 19 tháng 6 năm 1975 để đi giữ một nhiệm
vụ mới, tốt hơn. Trung tá Vượng sống được lòng Tướng Vỹ và nhiều
người khác. Trung tá Vượng cũng muốn giao Trung đoàn cho tôi khi
ông đi, nên đã nhiều lần ông hỏi ý tôi, phân tích thiệt hơn cho
tôi nghe.
Như trên tôi không về lại Sư
đoàn 5 là do “tính háo danh” của tôi, ngoài ra còn một lý do
chính đáng nữa mà Tướng Vỹ và Trung tá Vượng chắc không để ý đến
đó là vào giờ phút cuối cùng của cuộc chiến Việt Nam, tôi thực sự
không muốn giao Quận Phú Giáo cho ai cả. Tôi biết trước sẽ có
cuộc rút quân ra khỏi Phú Giáo, nếu tôi giao lại cho một người
mới đến điều động quân (gồm 3 Tiểu đoàn Địa Phương quân, mấy chục
Trung đội Nghĩa quân, Cảnh sát, Nhân dân Tự vệ…, tất cả đều trang bị
súng), chỉ một sơ suất nhỏ cũng đưa đến hỗn loạn, vô chính phủ,
không tránh khỏi những đổ vỡ tang thương, chẳng khác chi Đại lộ
Kinh Hoàng miền Trung!
Lại nữa đã có những dấu hiệu
nổi loạn trong các đơn vị, tôi phải ra tay dập tắt. Tôi xin nói
thêm, các Tiểu đoàn Địa Phương Quân tuy đã thành lập thành Liên
đoàn, nhưng vẫn chịu sự điều động tác chiến trực tiếp của tôi và
tôi chỉ can dự vào việc điều động tác chiến, không hề xen vào
hoạt động nội bộ của các Tiểu đoàn trong Liên đoàn ĐPQ 935. Tôi
nhớ Thiếu Tướng Ân Tư Lệnh Phó Quân Khu 3, có lần thăm Phú Giáo đã
ra lệnh cho tôi hãy chờ khi nào các Tiểu đoàn Địa Phương Quân
phát lương, tôi hãy xuống bất chợt kiểm soát tình trạng lính ma,
lính kiểng của các Tiểu đoàn ấy ra sao và cho ông biết. Tuy tôi
dạ vâng để Thiếu Tướng Ân vui lòng nhưng tôi đã không thi hành,
bởi thi hành theo lệnh của ông tôi sẽ đụng chạm rất nặng, chỉ từ
chết đến bị thương cho tôi, nên tôi chẳng dại gì mà húc đầu vào
tường đá. Các Tiểu đoàn trưởng của Liên đoàn 935 Địa Phương Quân tỉnh
Bình Dương vẫn nhất mực tin ở tôi và tuân lệnh của tôi vào thời
điểm thập tử nhất sinh của cuộc chiến Việt Nam. (Nếu có cơ hội
tôi sẽ viết một bài nói về cuộc rút khỏi Phú Giáo của Quân và Dân
Phú Giáo do tôi điều động).
Tướng Vỹ có đầu óc rất thực
tế như người Mỹ vậy, dù tin ai nhưng vẫn phải kiểm soát (đặt
camera, máy nghe lén …)! Có lần tôi phải đi họp ở Tỉnh, ông đáp
trực thăng ghé ngay Quận Phú Giáo và vào chỗ ăn ngủ của tôi để
kiểm soát sự sinh hoạt hàng ngày của tôi. Tôi không hề buồn ông,
bởi tôi nghĩ rằng nặng thà để ông biết rõ mọi việc tôi làm còn hơn
để ông nghi ngờ. Tôi chấp nhận như thế, nên khi người lính trong
quận báo cáo cho tôi biết Tướng Vỹ mới ghé quan sát phòng ốc của
tôi khi tôi đi họp ở Tỉnh thì tôi vẫn vui vẻ như thường. Tướng
Vỹ rất ghét đóng kịch, ai kiếm được súng ở đâu mà lập trận giả để
báo cáo chiến công, giết VC, thu vũ khí thì ông khám phá ra
ngay. Tướng Vỹ rất thông hiểu thuộc cấp, hiểu rõ tính nết của mỗi
cấp chỉ huy trực thuộc. Vì Tướng Vỹ hiểu rõ về thuộc cấp nhiều quá
mà bị một số người không thích ông chăng?
Có một vị Trung đoàn Trưởng
của Sư đoàn 5BB, trước ngày miền Nam mất, đến thăm và than với
tôi rằng ông không hiểu Tướng Vỹ muốn gì mà mỗi lần Tướng Vỹ xuống
thăm đơn vị của ông, tướng Vỹ luôn la rầy, giận dữ ông. Vị Trung
đoàn Trưởng này (rất thân với tôi) nhờ tôi rà xem (như rà mìn
vậy) Tướng Vỹ muốn gì để ông lo. Tôi thực tình cũng chịu thua
chẳng biết Tướng Vỹ muốn gì nữa. Tiện đây tôi xin thành thực xin
lỗi vị Trung đoàn Trưởng trên vì tôi đã nói ra điều này. Tôi
không muốn ám chỉ Trung tá thích đút lót, hối lộ mà chỉ muốn nói
lên nỗi buồn phiền, trách móc của Trung tá khi Trung tá đã làm
hết bổn phận rồi mà sao Tướng Vỹ vẫn không được hài lòng. Tôi
biết đến giờ này Trung tá vẫn còn giận Tướng Vỹ lắm. Thôi hãy bỏ qua
chuyện cũ đi, Trung tá! Tôi biết Trung tá rất thương tôi và tin
tôi nên tôi mới dám đề nghị Trung tá bỏ qua chuyện cũ để cùng tôi
ca tụng một vị Anh Hùng của Quân Lực VNCH, nào mấy ai có thể làm
được như ông. Tôi còn nhớ mãi, hôm tôi và Trung tá ngồi chung
trong hội trường của trại tù VC ở Cát Lái (Trường Quân Khuyển cũ) –
lúc đó chỉ có tôi và Trung tá – Trung tá đã lớn tiếng và lấy tay
chỉ vào mặt ảnh thằng Hồ Chí Minh treo trên hội trường mà nguyền
rủa nó thậm tệ; vì nó mà dân tộc Việt Nam điêu linh thống khổ,
không cất đầu lên được. Tôi biết Trung tá làm vậy để cho bõ cơn
giận với thằng khốn nạn Hồ Chí Minh, nhưng ít nhất Trung tá cũng
phải tin và thương tôi nên Trung tá mới dám ngang nhiên xỉ vả nó
chứ. Bởi nhỡ tôi bán đứng Trung tá bằng cách đi bá cáo cho VC,
lập công với chúng thì sao, phải không Trung tá? Tôi biết ông vẫn
còn tin và thương tôi, vậy Trung tá hãy nghe đàn em bỏ qua những
chuyện cũ đi nhé!
KỶ NIỆM SAU CÙNG NHƯNG MÃI MÃI VỚI TƯỚNG VỸ
Vào năm 1973, tôi thường có
dịp gặp Tướng Lê Nguyên Vỹ, lúc bấy giờ ông còn là Đại tá Tư Lệnh
Phó Sư đoàn 21BB cho Tướng Lê Văn Hưng. Tôi được trò chuyện hàn
huyên với ông nhiều nhất vào thời gian ông bị thương nằm tại Tổng
Y Viện Cộng Hòa vì máy bay quan sát chở ông bị rớt trong khi ông
đi quan sát mặt trận tại vùng 4 chiến thuật. Một điều mà ông
thường nhắc đi nhắc lại trong các lần tôi nói chuyện với ông là
“Hải ơi, coi chừng mình sẽ bị mất nước đó”. Lúc bấy giờ tôi chỉ
biết lắng nghe mà không bày tỏ một ý kiến nào. Có thể tôi chưa có
khái niệm gì về sự mất nước cũng như hậu quả của nó chăng? Cũng
có thể tôi là một cấp chỉ huy chiến thuật rất tự tin vào mình và
đơn vị, nên tôi không bao giờ lại tin là Quân Lực VNCH sẽ thua
quân VC để đến nỗi phải mất nước. Nhưng dần dà tôi cũng đã thấy
được cuộc chiến VN không được quyết định bằng các trận đánh thắng của
Quân lực VNCH ngoài mặt trận và tôi cũng đã linh cảm miền Nam
khó giữ được đất đai vẹn toàn. Vào những ngày tháng cuối cùng của
cuộc chiến VN, tuy biết miền Nam sẽ thua nhưng tuyệt nhiên tôi
không có một ý định nào bỏ trốn khỏi đơn vị để kiếm sự an toàn
cho bản thân và gia đình. Những lời khuyên bảo của anh chị ruột
tôi, các em gái tôi, phải bỏ đơn vị về Sài Gòn để trốn khỏi VN,
đều bị tôi để ngoài tai. Tướng Vỹ ít nhất hai hoặc ba lần nói với
tôi hãy tìm cách lo cho vợ con đi an toàn, còn tôi hãy ở lại
chiến đấu với đơn vị.
Khoảng hơn một tuần lễ trước
khi mất nước, Tướng Vỹ cho trực thăng đón tôi qua Lai Khê để gặp
ông bàn việc. Trong khi trò chuyện ông thường nhắc đi nhắc lại là
đến giờ này Tông Thống Thiệu vẫn còn cố chấp, không chịu nghe lời
ai cả. Gặp Tướng Vỹ xong, ra đến bãi đậu trực thăng, hai sĩ quan
lái trực thăng cho Tướng Vỹ nói với tôi rằng tôi hãy cố thuyết
phục Tướng Vỹ để cho họ chở Tướng Vỹ và tôi ra Đệ Thất Hạm Đội.
Hai vị Sĩ quan không quân còn nhấn mạnh rằng mọi người đang lo
chạy trốn cả rồi Tướng Vỹ và tôi còn đánh làm gì nữa. Tôi chỉ
gật-gù cảm ơn lòng tốt của họ và không nói thêm gì cả. Hai vị Sĩ
quan này chắc nghĩ tôi thân với Tướng Vỹ, nên tôi có thể thuyết
phục được ông, nhưng tôi lại nghĩ rằng tôi đã không muốn bỏ chạy
thì tôi dại gì lại đi thuyết phục người khác hãy bỏ chạy để bỏ tôi
ở lại một mình. Hơn nữa tôi cũng biết Tướng Vỹ đã quyết định đánh
đến cùng rồi. Về đến quận, vừa ngả lưng nghỉ mệt, người lính gác
cổng chạy vào báo cô Quý, em gái ruột tôi từ Sài Gòn lên muốn vào
gặp tôi. Tôi căn dặn người lính gác ra nói dối với em tôi rằng
tôi đi họp chưa về. Tôi đoán biết Mẹ tôi cho cô em tôi lên thúc
tôi bỏ quận để về Sài Gòn lo việc chạy trốn khỏi Việt Nam.
Tuy tôi đã quyết định ở lại
chiến đấu cùng đơn vị, nhưng tôi nghĩ rằng tôi cũng cần phải lo cho
vợ con tôi, nên ngày 27 tháng 4 năm 1975 tôi quyết định về Sài
Gòn thăm gia đình như lời khuyên của Tướng Vỹ trước đây.Thực sự
buổi về Sài Gòn này tôi đã chỉ dám ghé nhà bố mẹ vợ tôi tại đường
Nguyễn Bỉnh Khiêm để khuyên vợ tôi hãy mang hai con tôi bám theo
mẹ, anh và các em gái tôi mà chạy khỏi VN. Tôi trở về Phú Giáo
ngay trưa hôm 27 tháng 4, không dám ghé đường Lê Văn Duyệt gặp
mẹ, bởi tôi biết mẹ tôi sẽ bất cứ giá nào giữ tôi ở lại Sài Gòn
để cùng gia đình chạy trốn. Tôi đã tự lựa chọn con đường cho tôi
đi, mặc dù tôi biết con đường này không có lối thoát! Nhưng tôi
không thể bỏ trốn mọi người quân cũng như dân Phú Giáo, mọi người
đang trông chờ sự dẫn dắt khéo léo của tôi để may ra được thoát
chết trong giờ phút tuyệt vọng của cuộc chiến.
Sáng 30 tháng 4 năm 1975, tôi hoàn toàn mất liên lạc với tỉnh Bình
Dương! Tôi nói với Thiếu tá Hùng Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 306 Địa
Phương Quân hãy cố gắng đánh mở đường đưa tôi về tỉnh, vì tôi đã
mất liên lạc với Đại tá Của, Tỉnh trưởng Bình Dương. Khoảng nửa giờ
sau đó, Thiếu tá Hùng cho tôi biết phía trước đường tiến quân có
một cái chốt cấp Đại đội của VC chặn đường. Tôi nhất quyết ra
lệnh cho Thiếu tá Hùng phải vượt qua chốt VC. Thiếu tá Hùng đã
phải vượt lên tuyến đầu để chỉ huy đánh chốt VC. Chừng nửa giờ
quyết chiến, Thiếu tá Hùng báo cáo Tiểu đoàn tràn ngập chốt của
VC. Tôi liền ra lệnh toàn thể các đơn vị kéo quân về hướng Hòa
Lợi 2 và tiến về Bình Dương. Khốn nỗi thay! Đồng thời lúc đó một
anh lính đưa cho tôi nghe lệnh đầu hàng qua một radio nhỏ cầm tay
của Tổng Thống Dương Văn Minh và Chuẩn Tướng Nguyễn Ngọc Hạnh, tự
xưng là Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH. Tôi bàng hoàng, nước
mắt ràn-rụa, nói với mấy người lính đứng bên cạnh:”thôi chúng
mình mất nước rồi”! Tôi còn nhớ hôm bố tôi chết vào dịp Tết Mậu
Thân 1968, khi VC đánh vào tỉnh Phan Thiết, tôi cũng không khóc
nhiều như thế. Nước mắt ở đâu cứ ràn -rụa đổ ra! Nhưng chỉ ít phút
sau tôi lấy lại được bình tĩnh và đang đự định lấy tần số liên lạc
với Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 5, thì Trung tá Vượng Trung đoàn trưởng
Trung đoàn 7 kéo bộ chỉ huy đến và bảo tôi cùng kéo quân về Lai
Khê gặp Tướng Vỹ để nhận lệnh.
Đến hàng rào căn cứ Lai Khê,
Trung tá Vượng và tôi phải cố gắng thuyết phục những người lính
gác ở đây mới lọt được vào cổng của căn cứ, vì đã có lệnh “nội bất
xuất, ngoại bất nhập” của Tướng Tư Lệnh Sư đoàn 5.
Vừa bước vào phòng họp, tôi
thấy hầu hết các sĩ quan thuộc Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 5 đang đứng, ngồi
quanh Tướng Vỹ, nào Đại tá Tường Phụ tá Hành Quân, Pháo binh,
các sĩ quan tham mưu, tôi không thấy Đại tá Thoàn Tư Lệnh Phó và
Đại tá Từ Vấn Tham mưu Trưởng Sư đoàn. Tướng Vỹ ngồi ngay giữa
một chiếc bàn nhỏ, trên bàn là bát canh măng khô nấu với vịt, bên
cạnh là chén nước mắm ớt. Sau khi tôi và Trung tá Vượng chào ông
theo đúng quân cách, Tướng Vỹ nói:
- Vượng, Hải vào ăn cơm luôn thể - Giọng nói của ông vẫn khàn khàn, bình thản như mọi khi.
Tuy không nói ra nhưng tôi thấy ngán-ngẫm và nghĩ trong đầu:”Trời ơi! Giờ này còn ăn uống gì nữa”
Sau khi mời chúng tôi xong,
Tướng Vỹ tự cầm chén lên xới cơm, chan canh măng vịt và ăn rất
nhanh như người bị đói đã lâu. Vừa ăn ông vừa nói:”món măng khô nấu
vịt là món moa thích nhất”. Ăn đúng ba chén cơm đầy ông mới
buông đũa. Tôi cũng cầm chén ăn cơm, nhưng không sao nhai nổi
lưng chén cơm. Tướng Vỹ, sau khi uống ngụm nước cho trôi cơm, ông
đứng phắt dậy và vẫy tôi ra một chỗ để nói riêng. Nhưng tôi hỏi
ông trước: -Thiếu tướng có lệnh gì cho tôi không?
Ông đáp rất gọn:”Moa lo cho moa, toa lo cho toa”
Tôi chưng hửng đáp:”Tôi biết lo làm sao bây giờ, Thiếu tướng. Lính của tôi đã bố trí sát hàng rào Lai Khê rồi”
- Khoảng hơn một tháng trước
30 tháng 4 năm 1975, Tướng Vỹ có dặn tôi hãy chuẩn bị một số
người lính trung thành để đưa ông và tôi đi. Tôi đoán biết sẽ đi
Vùng 4 Chiến Thuật để tiếp tục chiến đấu, vì ở đó có Tướng Hưng,
Tướng Nam là những người Tướng Vỹ có thể tin tưởng được (Tướng Vỹ
đã nhận định không sai chút nào, vì hai Tướng Hưng, Nam cũng đều
là những Tướng Anh Hùng, vị quốc vong thân!).
Tướng Vỹ mỉm cười nhìn
chằm-chặp vào tôi, nhắc lại y như trên một lần nữa và thêm: “Coi
chừng tiêu đó Hải”. Nói xong ông quay lưng bỏ đi ngay.
Câu trả lời của Tướng Vỹ đã
làm tôi hoàn toàn thất vọng. Tôi có cảm giác bị bỏ rơi và nghĩ
rằng:”hay Tướng Vỹ đã có trực thăng sẵn sàng bốc ông rồi!”. (Tôi
lại nghi oan cho ông lần nữa)
Không đầy một phút sau, tôi
giật mình vì nghe có tiếng súng nổ. Tôi thấy Đại uý Nguyên tùy viên
của Tướng Vỹ chạy ra nói lớn như khóc:”Tướng Vỹ đã tự sát rồi!”
Tôi trách Đại úy Nguyên:”Sao anh không tìm cách dấu súng của ông Tướng trước đi”
Đại úy Nguyên trả lời:”Tôi
biết ông có 6 khẩu súng cả thảy, tôi đã dấu hết, khẩu ông dùng để
tự sát, tôi không biết ông lấy ở đâu” .
Viên đạn súng colt đã xuyên
từ cổ lên đầu Tướng Vỹ làm ông ra đi ngay. Tôi và Trung tá Vượng
đã vào chào ông lần cuối. Cả hai chúng tôi sau đó đã bị VC bắt giữ
và đi tù ngay cùng chiều hôm 30 tháng 4 năm 1975. Sau này tôi có
nghe nhiều người nói rằng khi tên chỉ huy VC vào căn cứ Lai Khê
thấy Tướng Vỹ tự sát đã tỏ lòng khâm phục và nói:”Làm Tướng chết theo thành như Tướng Vỹ mới xứng đáng làm Tướng”.
Viên đạn súng colt đã xuyên
từ cổ lên đầu Tướng Vỹ làm ông ra đi ngay. Tôi và Trung tá Vượng
đã vào chào ông lần cuối. Cả hai chúng tôi sau đó đã bị VC bắt giữ
và đi tù ngay cùng chiều hôm 30 tháng 4 năm 1975. Sau này tôi có
nghe nhiều người nói rằng khi tên chỉ huy VC vào căn cứ Lai Khê
thấy Tướng Vỹ tự sát đã tỏ lòng khâm phục và nói:”Làm Tướng chết theo thành như Tướng Vỹ mới xứng đáng làm Tướng”.
Tướng Vỹ đã tự sát đền nợ
nước đúng ngày 19 tháng 3 năm Ất Mão (Âm Lịch), tức ngày 30 tháng 4
năm 1975 (Dương Lịch). Khi còn ở Việt Nam, dù còn ở trong nhà
tù VC tôi đều tìm cách giỗ ông vào ngày 19 tháng 3 âm lịch mỗi
năm.
Nhưng khi qua đất Mỹ này rồi
tôi sợ quên, nên tôi đổi ngày giỗ ông vào ngày 30 tháng 4 Dương
Lịch mỗi năm. Sau đây là một bài thơ tôi đã làm để kỷ niệm những
ngày tôi làm giỗ Tướng Lê Nguyên Vỹ:
MĂNG KHÔ NẤU VỊT
Măng khô nấu vịt Bác không rời,
Lời Bác, lòng tôi luôn nhắc tôi.
Ngày cuối tháng tư, tôi giỗ Bác,
Lịch đầu năm mão, Bác chầu Trời.
Tôi vui như lúc tôi còn Bác,
Bác chết là khi Bác sống đời.
Đốt nén hương thơm tôi khấn Bác,
Măng khô nấu vịt, Bác về xơi.
Cuộc đời của tôi và biết bao
các chiến hữu khác kể từ 30 tháng 4 đen, 1975 trở đi đã bước vào
một khúc quanh mới của lịch sử Việt Nam, trong đó chúng tôi phải
gánh chịu mọi gian nan, đọa đày, chết chóc trong bệnh tật, đói
khát và hắt hủi của những tên lính bị tức tưởi thất trận mà có kể
ra cho ai nghe đã mấy người tin rằng thật. Bởi có nhiều người đã
mơ tưởng rằng sau khi im tiếng súng vào 30 tháng 4 năm 1975, hai
miền Nam Bắc sẽ nhận ra cuộc chiến huynh đệ tương tàn đã kéo dài
trong bao nhiêu năm chính là do các thế lực bên ngoài cố ý tạo ra
cho dân Việt, để rồi anh em ôm nhau mà khóc trên cầu Bến Hải vĩ
tuyến 17, cùng tha thứ cho nhau những nhầm lẫn đáng tiếc trong
quá khứ và cùng nhau đoàn kết xây dựng lại quê hương Việt Nam đã
đổ và rách nát vì bom đạn, vì những thứ chủ nghĩa ngoại lai, những
mớ lý thuyết và giáo điều lỗi thời, không tưởng.
Trái hẳn với các mơ ước viển vông trên của các sư, cha, những
chính khách xôi thịt, thiển cận, vì rằng sau màn chém giết là đến
những màn trả thù độc ác và có hệ thống khác, cũng đầy dẫy những
xác người, ràn-rụa nước mắt gây ra do đói khát, cướp bóc, tố khổ
và phân ly. Hai cây cùng trồng nhưng mọc không đều, một cây mọc
thật nhanh cao hơn hẳn cây bên cạnh mọc quá chậm; bây giờ muốn cho
hai cây cao ngang bằng nhau, thay vì phải dùng phân bón, vun xới
cho cây mọc châm được mọc nhanh hơn, VC đã dùng một phương pháp
thật là “cách mạng” để giải quyết vấn đề, đó là dùng dao chặt đứt
phần ngọn của cây mọc nhanh cho ngang bằng với cây mọc chậm. Kế
hoạch bất chợt đổi tiền xảy ra sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 của
VC, trong đó mỗi người dân chỉ đưọc phép đổi lấy một số tiền mới
nhất định từ những đồng tiền cũ, chính là phương pháp san bằng
tài sản rất độc đáo giữa người giàu và người nghèo của VC, y hệt
phương pháp chặt cây vừa trình bày ở trên. Mọi người trong xã hội
như thế chắc chắn sẽ được nghèo như nhau!
Sau 33 năm, ngày Tướng Vỹ chết theo thành niềm đau mất nước
vẫn còn trong tâm khảm những người Việt Quốc Gia thật sự yêu quê
hương xứ sở, dân Việt vẫn còn phải sống trong đói rách lầm than,
chưa bao giờ được thở hít không khí tự do, bởi ách Thực dân, Đế
quốc tuy đã được gỡ bỏ, nhưng ách Cộng sản lại đã được tròng vào
cổ dân Việt, nặng nề gấp ngàn lần.
Lòng chúng ta vẫn còn đau, vì
chúng ta đã thua đau, cái thua không đáng thua chút nào. Một
miền Nam của trí tuệ, trù phú lại chịu thua bọn người rừng rú, khố
rách áo ôm, ngu si, dối trá. Có người bảo rằng miền Nam thua vì
người Mỹ đã bỏ chúng ta. Không đúng hẳn như vậy! Mà phải nói rằng
người Mỹ bỏ chúng ta vì chúng ta quá yếu, không bỏ không được.
Quân đội là nguồn sức mạnh
chính của đất nước sẵn sàng tiêu diệt quân xâm lăng, do vậy quân
đội phải được giao phó cho những người có thực tài, can đảm, đạo
đức và hết lòng với đất nước. Điều tôi muốn nhấn mạnh ở đây là
nếu các Tư Lệnh Sư đoàn của Quân Lực VNCH đều là Tướng Lê Nguyên
Vỹ thì chúng ta không mất nước. Tôi không nịnh nọt Tướng Vỹ và
nói ngoa đâu. Chúng ta cứ đọc lại trang sử Việt đời nhà Trần xem
tôi nói có đúng hay không?! Nhà Trần đã chiến thắng oanh liệt
đoàn quân Nguyên bách chiến bách thắng xưa kia, vì đã quy tụ được
những tinh hoa của đất nước: nào Trần Thủ Độ, “đầu tôi chưa rơi
xuống đất xin Bệ Hạ đừng lo”, nào Hưng Đạo Vương Trần quốc Tuấn,
thao lược mưu trí, Trần Quang Khải, Trần Khánh Dư, Trần quốc Toản,
Trần Nhật Duật…hết lòng vì đại sự. Một khi quân đội đã hùng mạnh
do các tướng có tài đức chỉ huy như thế, thì hội nghị Diên Hồng
của toàn dân hưởng ứng, hỗ trợ cho quân đội chiến thắng quân xâm
lăng ắt sẽ được mở rộng và đồng tâm, nhất trí. Nhà Trần đã chiến
thắng vẻ vang quân Mông Cổ không hề dựa vào một sức mạnh quân sự
nào của ngoại bang, chỉ dựa vào sức mình là quân đội do các tướng
có tài đức chỉ huy và sự ủng hộ của toàn dân. Miền Nam
chúng ta đã không quy tụ được các tướng có tài đức cho quân đội,
do đó chúng ta cũng không tạo được khí thế Diên Hồng trong toàn
dân, vì dân đã không tin vào quân đội. Những điều tôi
vừa trình bày ở trên có thể không làm hài lòng các vị niên trưởng
bậc thày của tôi trong quân đội, nhưng tôi vẫn mạnh dạn nói lên
quan điểm của tôi, cũng rất có thể là của nhiều người khác nữa,
đã được chứng minh từ những kinh nghiệm đấu tranh của lịch sử
Việt Nam trong công cuộc bảo vệ giang sơn Tổ quốc.
Tôi viết đến cuối bài
“Tướng Vỹ Chết Theo Thành” vào đúng cuối tháng 3, chuẩn bị bước
vào tháng 4 đen mỗi năm mà mọi người Việt ở hải ngoại không ai
không nhớ đến. Riêng tôi cũng đã sẵn sàng hương đèn để
tưởng nhớ đến Tướng Vỹ. Tôi không những làm giỗ ông vào ngày 30
tháng 4, hàng năm vào dịp Tết Nguyên Đán tôi luôn mời ông về
chung vui Tết với Tổ Tiên, Ông Bà và Cha Mẹ tôi. Thực lòng tôi đã
xem ông như người thân trong gia đình tôi vậy. Ông là biểu tượng
của Anh Hùng Bất Khuất mà tôi luôn ngưỡng mộ và tin tưởng. Tôi
thành tâm xin thưa với ông rằng sau tháng tư đen, 1975 mặc dù tôi
đã đánh mất tất cả, nhưng tôi đã không đánh mất tôi, tôi vẫn còn
giữ lại được một chút gì gọi là liêm sỉ để trong lời nói cũng
như việc làm, tôi không khi nào nói hoặc làm có lợi cho Cộng sản, kẻ
thù không đội trời chung của ông, của tôi và của toàn dân Việt
yêu chuộng Tự do. (tác giả Nguyễn Văn Hải)
Sự Tích Thập Bát Đại Thần Tướng Việt Nam Thời Cận Đại:1/ Thần tướng
Trình Minh Thế (1922 - 1955)
http://www.quansuvn.info/D_1-2_2-85_4-867_5-10_6-2_17-22_14-2_15-2/
2/ Thần tướng
Phan-quang-Đông (1929-1964) http://www.quansuvn.info/D_1-2_2-85_4-5140_5-10_6-2_17-22_14-2_15-2/
3/ Thần tướng
Trương Quang Ân, Dương-thị-Thanh (1932 - 1968; 1931-1968) http://www.quansuvn.info/D_1-2_2-85_4-868_5-10_6-2_17-22_14-2_15-2/
4/ Thần tướng
Nguyễn Viết Thanh (1930 - 1970) http://www.quansuvn.info/D_1-2_2-85_4-876_5-10_6-2_17-22_14-2_15-2/
5/ Thần tướng
Lê-đức-Đạt (? - 1972) http://www.quansuvn.info/D_1-2_2-235_4-5862_15-2/
6/ Thần tướng Trần-thế-Vinh
(1946-1972) http://www.quansuvn.info/D_1-2_2-235_4-5861_15-2/
7/ Thần tướng
Nguỵ-văn-Thà (1943-1974) http://www.quansuvn.info/D_1-2_2-85_4-5225_14-2_15-2_5-10_6-1_17-22/
8/ Thần tướng
Nguyễn-xuân-Phúc (1938 - 1975) http://www.quansuvn.info/D_1-2_2-235_4-5864_15-2/
9/ Thần tướng Đỗ-hữu-Tùng
(? - 1975) http://www.quansuvn.info/D_1-2_2-235_4-5876_15-2/
10/ Thần tướng
Nguyễn-hữu-Thông (1937 - 1975) http://www.quansuvn.info/D_1-2_2-235_4-5904_15-2/
11/ Thần tướng,
Thiên tài quân sự Nguyễn-văn-Hiếu (1929-1975) http://www.quansuvn.info/D_1-2_2-127/
12/ Thần tướng
Nguyễn-văn-Long (1919 - 1975) http://www.quansuvn.info/D_1-2_2-235_4-5905_15-2/
13/ Thần tướng
Phạm Văn Phú (1929 - 1975) http://www.quansuvn.info/D_1-2_2-85_4-893_5-10_6-2_17-22_14-2_15-2/
14/ Thần tướng
Lê Nguyên Vỹ (1933 - 1975) http://www.quansuvn.info/D_1-2_2-85_4-930_5-10_6-2_17-22_14-2_15-2/
15/ Thần tướng
Trần Văn Hai (1929 - 1975) http://www.quansuvn.info/D_1-2_2-85_4-950_5-10_6-2_17-22_14-2_15-2/
16/ Thần tướng
Lê Văn Hưng (1933 - 1975) http://www.quansuvn.info/D_1-2_2-85_4-951_5-10_6-2_17-22_14-2_15-2/
17/ Thần tướng
Nguyễn Khoa Nam (1927 - 1975) http://www.quansuvn.info/D_1-2_2-85_4-1074_5-10_6-3_17-22_14-2_15-2/
18/ Thần tướng Hồ-ngọc-Cẩn
(1938-1975) http://www.quansuvn.info/D_1-2_2-85_4-5061_5-10_6-2_17-22_14-2_15-2/