Tưởng Niệm Trung Tá Cảnh Sát Quốc Gia Nguyễn Văn Long


Trung Tá Nguyễn Văn Long: Bảo Quốc công thần
Kính mời quý vị xem bài của Duyên Anh:
Máu Trung Tá Long đã thấm xuống lòng đất
mẹ
Tôi không hiểu, trong Dinh Độc Lập, Dương văn Minh và bọn hàng thần lơ láo đến
mức độ nào trước ống kính xấc xược của bọn phóng viên cộng sản và trước những
câu hạch hỏi hỗn láo của bộ đội giải phóng cấp tá. Họ có nghe những tiếng súng
danh dự, trách nhiệm, tổ quốc của lính văn nghệ diệt T-54 ở cầu Thị Nghè, của
lính nhẩy dù cách cổng Dinh Độc Lập chẳng bao xa? Chúng tôi vào trung tâm thành
phố. Dân chúng đang bu kín công viên dựng hai người chiến sĩ thủy quân lục
chiến Việt Nam họng súng nhắm thằng vào
Hạ Viện. Những chiếc loa gắn trên cây cao đã oang oang giọng nói mới chào mừng
giải phóng miền Nam. Bài hát Tiến vào Sài
gòn ta quét sạch giặc thù muốn rung chuyển thành phố. Nhưng trời vẫn thiếu nắng.
Cộng sản đã tiếp thu Đài phát thanh, Bưu điện... Giọng nói cầy cáo của Lý Quý
Chung và ca khúc Nối vòng tay lớn không còn nữa.
Chúng tôi lách đám đông. Dưới chân tượng đài của thủy quân lục chiến, xác một
người cảnh sát nằm đó. Máu ở đầu ông ta chẩy ra tươi rói. Người sĩ quan cảnh
sát đeo lon Trung tá. ông ta mặc đồng phục màu xanh. Nắp túi ngực in chữ Long.
Trung tá cảnh sát Long đã tự sát ở đây Cộng sản để mặc ông ta nằm gối đầu trên
vũng máu. Phóng viên truyền hình Pháp quay rất lâu cảnh này. Lúc tôi đến là 14
giờ 30. Dân chúng đứng mặc niệm trung tá Long, nước mắt đầm đìa. Những người
không khóc thì mắt đỏ hoe, chớp nhanh. Tất cả im lặng, thây kệ những bài ca
cách mạng, những lời hoan hô bộ đội giải phóng.
Trung tá Long đã chọn đúng chỗ để tuẫn tiết. Tướng giữ thành Sài gòn là Tổng
trấn Sài gòn đã đào ngũ. Tướng giữ thành Sài gòn là Đô trưởng Sài gòn đã đào
ngũ. Tướng giữ thành Sài gòn là Tổng giám đốc Cảnh sát quốc gia đã đào ngũ.
Không có Hoàng Diệu, ở những trạng lịch sử chó đẻ của thời đại chúng ta. Và
trên những tiểu thuyết đấu tranh, những hồi ký chiến đấu của những con người tự
nhởn sống hùng mọi hoàn cảnh, người ta không thấy một dòng nào viết về cái chết
tuyệt vời của trung tá Cảnh sát tên Long. Cộng sản đã chẳng ngu dại phong anh
hùng, liệt sĩ cho quốc gia. Họ độc quyền anh hùng, liệt sĩ. Ở những cuộc đấu
thầu anh hùng, liệt sĩ quốc gia tại hải ngoại, chưa thấy một nén tâm hương
tưởng mộ trung tá Long. Có lẽ, liệt sĩ đích thật không lãi lớn bằng liệt sĩ giả
vờ thế thì thời đại chúng ta đang sống là cái thời đại gì nhỉ? Nó không chịu,
không thích vinh tôn cái thật, đã đành, nó còn nhận chìm cái thật và vấy bẩn
lên cái thật một cách thô bạo, ẩn ý và lạnh lùng. Khi cái thật bị nhận chìm, bị
vấy bẩn, cái giả nổi bật, sáng giá và chói lọi, thơm tho. Như vậy, mọi giá trị
về tinh thần, về đạo nghĩa bị nhởn chìm theo. Rốt cuộc, bọn giả hình sống với
cái giả của chúng, huyễn hoặc mọi người bằng cái giả với bạo lực của quyền uy
hợp pháp và cả quyền uy ảo tưởng hậu thuẫn. Và người công chính thụ động, buông
xuôi. Cuối cùng, con cháu chúng ta sẽ chỉ biết liệt sĩ đất sét, anh hùng gian
dối, vĩ nhân phường tuồng.
Tôi muốn biểu dương trung tá Long như Hoàng Diệu hôm nay, Hoàng Diệu của Sài
gòn. ông ta đang nằm kia, dưới chân tượng đài thủy quân lục chiến Việt Nam anh dũng. Máu trung tá
Long đã thấm xuống lòng đất mẹ. Cái chết của trung tá Long nếu chưa thức tỉnh
được sự u mê của thế giới tự do thân cộng, của bọn phản chiến làm dáng thì, ít
ra, nó cũng biểu lộ cái khí phách của một sĩ quan Việt Nam không biết hàng giặc.
Tôi không mấy hy vọng cái chết của trung tá Long lay động nổi cái bóng tối vô
liêm sỉ trùm đặc tâm hồn những ông tướng đào ngũ. Chúng ta hãnh diện làm người
Việt Nam lưu vong vì chúng ta còn
trung tá Long không đào ngũ, không đầu hàng giặc và biết chết cho danh dự miền Nam, danh dự của tổ quốc.
- Tôi chứng kiến tự phút đầu.
- Ông nói sao?
- Tôi nhìn rõ ông ta rút súng bắn vào thái dương mình.
- Thật chứ?
- Đáng lẽ tôi phải nói dối.
- Tại sao?
- Vì nói thật lúc này không có lợi.
Tôi nghe hai người Sài gòn nói chuyện. Và tôi được nghe "Huyền sử một
người mang tên Long" do một trong hai người kể. Truyện như vầy: 10 giờ 30,
Dương văn Minh đọc lệnh đầu hàng, quân đội và cảnh sát tuân lệnh Tổng thống,
lột quần áo, giầy vớ, nón mũ, vất súng đạn bỏ chạy về nhà mình hay nhà thân
nhân của mình. Một mình trung tá Long không lột chiến bào, không phi tang tích
huân chương, không liệng súng đạn. Trung tá Long từ nơi nào đến, chẳng ai rõ.
ông xuất hiện ở công viên trước Hạ Viện hồi 12 giờ. Ngồi trên ghế đá, ông ta
trầm ngâm hút thuốc. Rồi ông ta nhìn trước, nhìn sau, ngó ngang, ngó dọc. Rồi
ông ta đưa tay ôm lấy đầu, cúi thấp. Khi ấy, Sài gòn đã ồn ào tiếng hoan hô
cộng sản giải phóng. Bất chợt, ông ta đứng dậy, chậm rãi bước gần chân tượng
đài. Trung tá Long đứng thẳng. ông ta ngẩng mặt. Thản nhiên, ông ta rút khẩu
Colt, kê họng súng vào thái dương mình bóp cò. Tiếng đạn nổ trùm lấp tiếng hoan
hô cộng sản. Trung tá Long đổ rạp.
- Đó, diễn tiến cái chết của Trung Tá Long.
- Ông có mặt ở đây trước lúc trung tá Long xuất hiện?
- Phải. Tôi tuyệt vọng, không thiết về nhà nữa.
- Rồi sao?
- Dân chúng bu quanh xác trung tá Long. Cộng sản chưa có thì giờ kéo xác ông ta
đi. Phóng viên truyền hình Pháp thu cảnh này kỹ lắm. Chỉ tiếc họ đã không thu
được cái oai phong lẫm liệt của trung tá Long. Họ đến quá chậm và họ chỉ quay
phim một xác chết. ông hãy nhìn cho kỹ. Trung Tá Long tuẫn tiết cùng chiến bào,
cùng cấp bậc, cùng tên mình.
Tôi đã nhìn kỹ. Lịch sử của chúng ta đã có những vị anh hùng chỉ có tên mà
không có họ. Như Đô đốc Tuyết, Đô đốc Long... Hôm nay, chúng ta có thêm trung
tá Long. Những ai sẽ viết lịch sử? Và liệu sử gia đời sau có soi tỏ niềm u ẩn
của Trung tá Long chảy máu mắt nhìn quê hương lạc vào tay quân thù mà bất lực
cứu quê hương, mà chỉ còn biết đem cái chết tạ tội quê hương, dân tộc. Đã hàng
tỉ tỉ chữ viết về những chuyện khốn nạn, viết về những tên khốn kiếp, viết về
những sự việc khốn cùng. Dòng chữ nào đã viết về Trung tá Long? Người ta đã
viết cả pho sách dày cộm để nguyền rủa xác chết. Người ta cũng đã viết cả pho
sách dầy cộm để suy tôn xác sống. Người ta ồn ào. Người ta vo ve. Dòng chữ nào
đã viết về Trung tá Long? Ai đã làm công việc sưu tầm lý lịch đầy đủ của vị
liệt sĩ đích thực này? Than ôi, lịch sử đã hóa thành huyền sử. Cho nên người ta
nhìn quốc kỳ mà không cảm giác linh hồn tổ quốc phấp phới bay. Chúng ta đang bị
sống trong cái thời đại của những ông tướng đào ngũ, của những ông tổng trưởng
đào nhiệm không hề biết xấu hổ. Thời đại của chúng ta còn đòi đoạn ở chỗ, kẻ sĩ
và kẻ vô lại đồng hóa trong "lý tưởng" nguyền rủa xác chết và suy tôn
xác sống.
Xưa, Hàm Nghi 8 tuổi, hỏi cận thần:
- Tay bẩn lấy gì rửa? Cận thần
đáp:
- Nước.
Hàm Nghi hỏi thêm:
- Nước bẩn lấy gì rửa?
Cận thần ngơ ngác:
- Tâu bệ hạ, thần không hiểu.
Hàm Nghi nói:
- Nước bẩn lấy máu mà rửa!
Trung tá Long đã lấy máu rửa một vết ô nhục 30-4. Lính nhẩy dù đã lấy máu rửa
một vết ô nhục 30-4. Lính văn nghệ đã lấy máu rửa một vết ô nhục 30-4. Những kẻ
tạo ra ô nhục 30-4 lấy gì nhỉ? Họ đang cầm ca, cầm đĩa xếp hàng ngửa tay lấy
cơm, lấy nước ở đảo Guam. Biết đâu chẳng xẩy ra tranh cơm như tranh quyền
bính. Và biết đâu chẳng bị ông quân cảnh Mỹ đen tặng một vài cái tát xiếc!
Những kẻ này vẫn thừa thãi vô liêm sỉ để họp bàn, hiến kết cứu nước. Lịch sử
lại thêm vài phụ trang chó đẻ.
Giải phóng quân đã đổ đầy trước thềm Hạ Viện. Cỏ đuôi chó hoan hô tưng bừng.
Dân chúng chiêm ngưỡng Trung Tá Long tản mạn. Trung Tá Long nằm nguyên chỗ ông
ngã rạp cho máu rửa nhục Sài gòn. Giã từ liệt sĩ! Vĩnh quyết liệt sĩ. Xin hãy
phù hộ tôi kéo dài cuộc sống hèn để có ngày được viết vài dòng về Trung Tá.
BBT: Qua nhiều bài viết về Trung Tá Nguyễn Văn Long mà chúng tôi có dịp đọc
trước đây, chúng tôi vẫn cảm thấy có điều gì đó còn thiếu sót, nếu không muốn
nói là chưa thỏa mãn được những gì mà chúng ta muốn biết về Trung Tá Long.
Người mà chúng tôi nghĩ đến có thể bổ túc cho những thiếu sót đó không ai khác
hơn là cựu Trung Tá Nguyễn An Vinh, nguyên Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát
Quốc gia Đà Nẳng, người đã có thời gian dài được gần gũi với Trung Tá Long,
trong phạm vi Bộ Chỉ Huy Khu I, cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Kính mời quý vị xem bài
của cựu Trung Tá Chỉ Huy Trưởng Nguyễn An Vinh
Sau chính biến 1 tháng 11 năm 1963 lật đổ nền Ðệ nhất Cộng Hòa, Quốc Gia trải
qua một thời kỳ hỗn lọan. Tại miền Trung, đặc biệt là Thừa Thiên Huế, họat động
ngành an ninh trật tự hoàn toàn tê liệt. Chỉ trong vòng chưa đầy 3 năm mà đã
thay đổi sáu Giám-Ðốc Nha Công An. Có ông chỉ tại chức 32 ngày. Hai Trưởng Ty
Công An Thừa Thiên và Cảnh Sát Huế đều là cơ sở nòng cốt Cộng Sản, một vài tay
chân của nhóm Phật Giáo Ấn Quang tranh đấu ly khai xuống đường phá rối. An ninh
trật tự hoàn toàn suy sụp.
Ðể đối phó với tình hình rối ren của vùng I, tháng 6 năm 1966 Trung Ương
quyết-định bổ nhiệm Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan đảm nhiệm chức vụ Tổng Giám
Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, và ngay lập tức, ông cho chấn chỉnh lại những hoạt động
của Lực Lượng Cảnh Sát Quốc Gia tại địa phương đầy biến động này, đồng thời bổ
nhiệm Quận Trưởng Cảnh-Sát Võ Lương giữ chức Giám-Ðốc Cảnh Sát Quốc-Gia Vùng.
Quận Trưởng Cảnh Sát Võ Lương là Giám-Ðốc thứ bảy kể từ năm 1963 và là người
đầu tiên giữ vững đựơc kỷ cương trật tự sau một thời gian hỗn loạn quá dài. Ðể
mau chóng ổn định nhân-sự cũng như họat động, Ông cho lệnh di chuyển Nha CSQG
từ Huế vào Ðà-Nẳng. Ông cho tất cả nhân viên dễ dàng trong một tháng để thu xếp
gia-đình.
Trong vòng một tháng đó, phần đông nhân-viên đã có đủ thì giờ để ổn định việc
nhà cửa và chuyện con cái học hành. Chỉ riêng Trung Tá Long, lúc ấy vừa được bổ
nhiệm chức Chủ-Sự Phòng An Ninh Nội Bộ kiêm Thanh Tra, là còn loay hoay chưa
kiếm ra nơi tá túc cho gia-đình. Hết hạn 1 tháng, Ông không thèm xoay sở nữa mà
đã sáng kiến thực hiện một việc cổ kim không giống ai:
Thấy có một khoảng đất công trống trên đường Duy Tân, giữa lòng Thành Phố, Ông
dựng lên một cái chái lợp tôn, dựa lưng vào bức tường thành của một Công Sở. Ðó
là nơi gia đình ông đang cư trú, không điện không nước.
Có hai nhân viên thuộc quyền ghé thăm thấy cả nhà ban đêm thắp hai ngọn đèn dầu
lù mù, họ rủ nhau hùn tiền mua đến cho ông một cái đèn Manchon. Ông từ chối
nhất định không lấy, nói thế nào ông cũng không chịu, bắt họ đem đi trả lại.
Câu chuyện nhà ông Long thắp đèn dầu được nhiều người kể đi kể lại ở sở. Một
hôm nhân có dịp ngồi chung xe với ông Giám Ðốc lên họp Quân Ðoàn, tôi kể Ông
nghe câu chuyện về cái đèn Manchon. Ông Giám Đốc lắc đầu nói: “...tính của Long
là vậy, tôi biết chả từ lâu, từ hồi còn làm bên Công An Liên Bang. Ðó là một
người rất tốt, thanh liêm và cương trực, đông con nhà nghèo...”. Từ lúc đó cho
đến khi vào họp Ông không nói thêm lời nào. Ông lặng lẽ, dường như có điều tính
toán suy nghĩ, ngó mông lung ra ngoài đường. Tuần lễ sau, tôi ghé nhà Long thăm
đã thấy có điện nước. Hỏi ra thì biết trong lúc Ông Long đi làm, có 2 người tới
bắt cho 2 bóng đèn và 2 lỗ cắm điện, một vòi nước. Họ không lấy tiền cũng không
cho biết ai sai tới. Tôi biết ngay là do sự can thiệp kín đáo của Ông Giám đốc.
Biết Ông không ra mặt tôi cũng làm thinh luôn.
Liền sau đó, trong một phiên họp khoáng đại, ông Giám Ðốc hỏi nhỏ tôi, nhà Long
có điện chưa. Tôi trả lời có rồi, có cả nước nữa. Ông gật đầu, mỉn cười nhìn về
phía Long, nét mặt hiền lành khoan dung. Ông vui vì đã giúp được thuộc cấp một
việc tuy nhỏ nhưng rất cấp bách cần thiết. Tính Ông quảng đại, kín đáo và
chi-tiết. Nhiều khi làm ơn từ việc nhỏ đến việc lớn, không cần cho ai biết.
Dạo ấy, vì cơ sở mới dọn từ Huế vào, phòng ốc chưa đủ, Ông Giám-đốc cũng không
có tư dinh phải ở tạm một phòng trong khách sạn Grand Hotel trên đường Bạch
Ðằng. Trong khách sạn có sẵn Restaurant. Ông thường dùng bữa vớí nhiều viên
chức khác ngành, vừa ăn vừa luận bàn công việc. Những lúc không mời ai, Ông gọi
tôi tới ăn cơm chung. Nhờ có chút khả năng giao-thiệp, quen biết nhiều người và
luôn sẵn những chuyện tếu vô hại, Ông thường ngồi nhiều giờ với tôi, bàn về đủ
mọi thứ, phần lớn là những việc trên trời dưới đất, không dính dấp gì tới công
vụ. Nhân một lúc vui vẻ, cởi mở, tôi nhắc lại chuyện Trung Tá Long và hỏi Ông
lý do không cho Long biết việc Ông can thiệp bắt điện nước vào nhà. Ông cườì
rồi từ từ kể. Sau đây là những gì Ông Giám đốc Võ Lương nói về Trung Tá Nguyễn
văn Long:
“...Tôi biết Long từ những thập niên 1940, khi Giả ( tiếng thông dụng miền
Trung có nghĩa là Anh ấy, Ông ấy ) mới gia-nhập Ngành An ninh thời Tây. Giả nổi
tiếng là siêng năng cần mẫn, kỷ-luật và trong sạch. Lương bổng không đến nỗi tệ
nhưng gia-đình đông con lại suốt đời không tơ hào những bổng lộc phi nghĩa nên
thời nào cũng nghèo. Cả đời ở nhà mướn. Ðúng ra, trước năm 1963 Giả cũng có một
căn nhà tương đối được, ở đường Phạm Hồng Thái, Thành Phố Huế. Nhà này có từ
nhiều năm trước, có thể do cha mẹ để lạị. Trước đảo chánh Ông Diệm, Giả bị bắt
giam trong vụ Gián Ðiệp Miền Trung do Phan Quang Ðông điều tra khai thác. Trong
thời gian bị ngưng chức không lương tiền hàng tháng, bà vợ đã phải bán căn nhà
này để đong gạo cho gia đình...
...Giả sống rất chừng mực, lương thiện, không có khả năng xoay xở, lại càng
không muốn xoay xở bậy bạ. Nhũng lúc gặp khó khăn thì cắn răng chịu đựng, không
hề muốn nhờ vả ai. Giả rất khó chịu khi phải chịu ơn người khác. Ðiều này giải
thích được tại sao tôi không trực tiếp cho biết đã nhờ người bắt điện nước cho
gia đình Giả. Chuyện nhỏ không muốn Giả có mặc cảm mang ơn....
... Là viên chức kỳ cựu, phuc vụ trong ngành đã hơn 20 năm, Long có khá nhiều
cơ hội để khá hơn, nhưng cơ hội nào Giả cũng bỏ qua, có khi còn quyết liệt từ
chối thẳng tay, nên đến bây giờ vẫn sống chật hẹp với đồng lương của một công
chức.
... Giả bị bắt giam trong vụ Gián Ðiệp Miền Trung năm 1962 nên sau khi Chính
Phủ Ngô Ðình Diệm bị lật đổ, Long được cử ngay làm Trưởng Ban Công Tác Ðặc
nhiệm điều tra tội ác và tài sản chế độ cũ cũng như của nhóm Cần Lao. Nhiều
người cứ tưởng dịp này Long tha hồ ân oán giang hồ. Nhưng trái với mọi suy
đoán, Long hành xử trách nhiệm hoàn toàn vô tư, không nghe lời xúc xiểm, không
thành kiến, cũng như không bới lông tìm vết. Ðể tránh mấy tay môi giới chạy
chọt xin xỏ đút lót lôi thôi, Long cắm trại luôn trong sở, thật khuya mớí lạch
cạch đạp xe về nhà. Dạo ấy cả gia-đình đã theo đạo Công Giáo, nhà thuê ngay kế
bên Dòng Chúa Cứu Thế Huế.. Nhà Long cửa đóng then cài. Long không tiếp bất cứ
ai.
...Năm 1965, Long đưọc bổ nhiệm làm Trưởng Ty Công an Ðặc Biệt Bến Hải, đóng
dọc theo Nam Vĩ Tuyến 17 thuộc Quận Trung Lương, Tỉnh Quảng Trị. Nhận việc chưa
bao lâu thì Phòng Lương Bổng, Vật Liệu , Kế Toán đưa cho Giả một phong bì đầy
tiền. Long hỏi cái gì thì họ cho biết, như thông lệ từ trước, đây là số tiền
bán bớt xăng nhớt và văn phòng phẩm nạp cho Trưởng Ty làm mật phí giao tế. Giả
đỏ mặt, trợn mắt đòi bỏ tù cả đám. Từ đó hết ai dám léng phéng chuyện tiền nong
lem nhem với Long...”
Kể đến đây Ông Giám Ðốc cườì thành tiếng và nói đùa: “...Nếu Long chịu nhận vàì
ba mớ phong bì như thế thì đâu đến nỗi bây giờ phải cắm dùi đường Duy Tân. Nên
nhớ Long đang là chức Trưởng Ty khi được lệnh di chuyển từ Quảng Trị vào
Ðà-Nẵng. Một Ông Tưởng Ty mà ngày trước ngày sau phải ở bụi ở đường thì thế
gian chỉ có một Nguyễn văn Long mà thôi, không có người thứ hai. Bổ nhiệm Long
vào chức An Ninh Nội Bộ và Thanh Tra, tôi yên tâm nhưng cũng có nhiều anh khó
chịu không vui đấy...”
Khi tôi hỏi về Vụ Gián Ðiệp Miền Trung, Ông cho biết vụ ấy không hẳn là có thật
mà chỉ do Pháp cố ý dựng chuyện lên để phá thối. Công việc của Phan Quang Ðông
là huấn luyện và tung mạng lưới tình báo gián điệp ra Bắc hoạt động vùng Thanh
Nghệ Tĩnh mà thôi. Ðông không dính líu gì đến vấn đề nội chính và an ninh quốc
nội. Ðông bị xử tử hình để bịt miệng, do áp lực từ Cộng Sản trong nhóm tranh
đấu, gây rối Mìền Trung. Không có vụ gián điệp thì Ðông cũng bị giết.
Hình như Long biết sự kiện này cho nên ngày xử bắn Phan Quang Ðông tại Sân Vận
Ðộng Chi Lăng, mấy người bạn cùng vụ rủ Long đi coi, Long từ chối. Long nói:
“...chuyện Ðông có những điều chưa minh bạch, xét xử vội vàng và có quá
nhiều áp lực. Ðông đâu đáng tội chết! Vả lại oán thù nên cởi, không nên
buộc..." Ông Giám Ðốc kết luận: ...Long khắt khe sắt thép với chính
mình nhưng khoan dung nhân hậu, công bằng và rộng lượng với kẻ khác, cả với kẻ
vừa mới giam giữ mình...
Năm 1970 , tôi bàn giao chức Chỉ Huy Trưởng cho Thiếu Tá Trần Hàng để ra
Ðà-Nẵng. Vừa nhận việc chưa được bao lâu thì Thành Phố chịu một cơn bão lụt
Sóng Thần khủng khiếp chưa từng thấy trong cả trăm năm. Mưa như trút nước. Sóng
biển gầm thét dữ dội. Một phần đường trong thành phố ngập nước quá đầu gối.
Giáp ranh phía Bắc Thành Phố là Bãi Thanh Bình thành một vùng nước mênh mông.
Nhưng ngặt nghèo và nguy hiểm nhất là khu tạm cư Ngọc Quang. Khu này là một
giải cát bồi thoai thoảỉ nằm dài giửa Bãi Thanh Bình và biển cả, không một bóng
cây. Từ tầm xa nhìn tới , toàn khu hoàn toàn biến mất, chỉ còn thấy lác đác ít
nóc nhà nhấp nhô theo sóng dữ. Gió rất mạnh, thổi giật từng cơn. Bộ Chỉ Huy
Cành Sát Quốc Gia huy động toàn bộ lực lượng cơ hữu như Giang Ðoàn và trưng
dụng thêm một số ghe thuyền tư nhân trong nỗ lực di tản dân chúng vào khu an
toàn, lúc ấy là sân Trường Kỹ Thuật ở đường Cao Thắng và chung quanh 2 Thánh
Ðường Họ Giáo Ngọc Quang và Giáo Xứ Thanh Ðức.
Qua máy truyền tin, Giang Ðoàn cho tôi biết gia-đình Trung Tá Long ở vào một
khu nguy hiểm nhất. Nhà có thể bị cuốn trôi ra biển bất cứ lúc nào. Cả gia-đình
đã lên được đất liền nhưng Trung Tá Long đang ngồi trên một cái chõng tre, tay
cầm chai rượu thuốc, nói là để ở lại giữ nhà, không chịu đi đâu hết. Tôi nghe
mà lạnh người. Cũng lại cái “Ông Trời sợ” này nữa. Tôi không thể quên vụ Ông
cắm dùi ở đường Duy Tân năm nào và việc Ông Giám Ðốc Võ Lương kín đáo giúp đỡ
bắt điện nước cho Long.
Tôi nhờ Giang Ðoàn ra tận nơi, đưa máy truyền tin cho tôi nói chuyện với Long.
Nghe tiếng tôi, Ông nói ngay: Chào Ông Chỉ Huy Trưởng, tôi không sao đâu. Sau
một hồi giải thích gần như năn nỉ, cuối cùng phải viện dẫn lý do an ninh cũng
như xin Ông hợp tác để làm gương cho đồng bào. Cuối cùng Ông mới chịu vào bờ.
Dọn dẹp bão lụt xong, dân chúng lo sửa sang những thứ đỗ nát. Tôi điện thoại
cho Ông hỏi thăm nhà cửa hư hại ra sao. Ông trả lời tỉnh bơ: Nhà chỉ có mấy tấm
ván, xẹp xuống rồi dựng lại lên, có chi mà hư hại. Tuần này tôi xin nghỉ mấy
ngày phép và mất một mớ đinh là xong ngay. Tôi bái phục cái thái độ bình tâm
giản dị gần như bất cần của Ông, nhưng quyết định phải ra tận nơi coi cho biết.
Tôi mặc thường phục cùng với mấy tay bài trừ du đãng đi Honda, luồn lách ra
Ngọc Quang. Tới nhà Ông Long, tôi hết hồn.
Căn nhà của Ông chỉ là một tác phẩm chắp nối vội vàng và lỏng lẻo gồm mọi thứ
tạp nhạp không đáng gọi là vật liệu, góp nhặt từ nhiều nguồn gốc khác nhau. Nhà
nằm lọt vào khu vực tạm cư hỗn độn gồm các gia đình đổ về từ những vùng quê
Quảng Nam mất an ninh. Giây điện
và giây phơi áo quần chằng chịt. Rất mau, tôi vụt nhớ đến một bản báo cáo của
Cảnh Sát Ðặc Biệt về việc Cộng Sản cài người vào dân tị nạn và vụ xe ông Trưởng
Phòng Ðặc Biệt Nha tên Diệp đi mua vật liệu bên Quận Ba bị đặt Plastic chết
banh xác trên gần Chợ Cồn năm nào. Thương Ông, tôi nhất định phải đưa Ông vào
thành phố.
Ngay ngày hôm sau tôi nhờ các Phường Quận tìm dùm một miếng đất cho Ông Long
cất nhà. Các nơi tìm được khá nhiều nhưng tôi chọn ra 4 chỗ. Tôi lái xe đưa Ông
đi xem. Cả 4 chỗ Ông không chê nhưng ngần ngại không quyết định, viện dẫn nhiều
lý do nghe cũng được. Chuyện không thể chậm trễ, tôi nói ngay: hay là Ông vô ở
chung với tôi. Ông cười khẩy, tưởng tôi bực mình nói lời mỉa mai. Sự thực khi
nói câu đó, tôi nghĩ đến khu đất trống sau tư dinh dành cho gia đình Chỉ Huy
Trưởng số 37 Nguyễn Thị Giang, ngay trung tâm thành phố, sát tường rào Trường
Nam Tiểu Học, có thể mở lối đi riêng. Tôi chỉ cho Ông. Ông chịu liền nhưng còn
bán tín bán nghi. Ðể xác nhận không phải chuyện bông đùa, tôi đưa Ông tới một
trại cây đường Phan đình Phùng, nói với bà chủ chọn cho Ông một số cây ván thứ
tốt, hoá đơn gởi cho tôi. Tới đây Ông mới tin là chuyện thật và bắt tay tôi vui
vẻ, nói lời cám ơn.
Không chờ đợi lâu, Ông cho tháo căn nhà từ Ngọc Quang, cha con chồng vợ cả gần
chục người hớn hở dựng căn nhà mới. Chỉ trong vòng chừng 2 tuần là xong, điện
nước từ nhà tôi câu qua. Gia đình Ông Long vui vẻ đã đành, phần tôi cũng vui
không ít.
Những ngày tiếp theo, tôi chờ hoài không thấy trại gỗ đưa hóa đơn tới, hỏi ra
mới biết: thấy tôi tận tâm, nể mất lòng, Ông chỉ lấy một ít ván gắn vào mặt
tiền coi cho được còn bao nhiêu Ông mua các thứ tạp nhạp từ một bãi phế thải ở
đường Ông Ích Khiêm chở mấy xe Ba Gác về, đóng phía trong phía ngoài khá tươm
tất. Một lần nữa tôi cảm phục tính lương thiện và sòng phẳng của Ông. Dọn vào
nhà mới xong, ít lâu sau Ông thăng Trung Tá và được bổ nhiệm Chánh Sở Tư Pháp,
tiếp tục phục vụ tại Bộ Chỉ Huy Vùng. Từ đây Ông yên tâm ở bên cạnh nhà tôi và
tôi cũng có cơ hội làm một chút quan sát:
Nhà Ông rất đông con. Một vợ một chồng, sinh 12 lần, nuôi 13 đứa, có cả cặp
sinh đôi sau cùng, một trai một gái. Ông còn cưu mang thêm một đứa cháu mồ côi,
anh nó đi lính tận trên Pleiku, giao luôn cho Ông giữ. Chưa hết. Nhà còn có
thêm một con heo con. Bà Long nói phải nuôi thêm con heo làm lợi, cho đứa cháu
mồ côi thêm tiền ăn học. Chuyện nhà Ông Long nuôi heo nhiều người không tin,
đòi đến coi. Làm gì giữa thành phố, ngay cạnh tư dinh Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát
mà lai có người dám nuôi heo. Ai nói gì thì nói, hiểu rõ hoàn cảnh gia-đình,
cùng cái lý do chân thật và tội nghiệp đối với Bà Long, tôi không phản đối. Mấy
đứa con nhỏ của tôi cũng rất ưa thích con heo. Ði học về, tụi nhỏ chạy sang
xem, cho heo ăn, trầm trồ khen heo sạch sẽ và mau lớn. Thấy các con ưa thích,
tôi cũng vui. Bà Long lại càng vui hơn.
Ông Long dạy con rất nghiêm nhưng không hề ồn ào to tiếng. Ông ưa nói chuyện
gương trung liệt người xưa và lấy chuyện sách đèn của các con làm trọng. Ông
thường dặn con: dù hoàn cảnh nào cũng ráng kiếm cho được ba mớ chữ. Câu Ông
thưòng nhắc đi nhắc lại với các con là: Khi nào cái đầu cũng ở trên. Cái đầu
phải có kiến-thức để điều khiển toàn thân làm những việc khá hơn là việc tay
chân lao động.
Những lúc rảnh rỗi nhà tôi hay sang chơi, khen mấy cháu học giỏi và thường dấm
dúi cho các em chút đỉnh tiền để khi thì mua cái cặp sách, khi thì mua bộ áo
quần. Ðặc biệt đứa cháu mồ côi là nhà tôi thương nhất. Ông Long có mấy con đã
trưởng thành. Hai anh đi không quân, một thiết giáp, ba Cảnh Sát. Đứa đầu lòng
tên Phụng, Sĩ Quan Biệt Ðộng Quân, tử trận. Thỉnh thoảng các cháu về phép, nhà
tôi thường dặn dò phải cận thận giữ mình, đôi khi còn có chút ít tiền cho các
cháu cà phê. Những cử chỉ thương yêu nhẹ nhàng kín đáo như thế chỉ có các con
và Bà Long biết, Ông Long thì không. Qua tôi, nhà tôi đã hiểu tính Ông Long rất
tự ái và không ưa nhờ vả ai, dù là từ những người thân.
Trong năm năm sống cạnh nhau, Ông Long chỉ sang nhà tôi có một lần, đi chung
với Ông Võ Hoàng, anh Ông Giám Ðốc Võ Lương. Lúc ấy tôi vừa cho thêm một người
bạn khác, Ông Huỳnh Giáo cựu Trưởng Ty Công-An Quảng Tín làm căn nhà đằng sau,
phía bên phải. Nhà Ông Long bên trái. Ông Võ Hoàng là một nhà phong thủy cho
biết hai căn nhà phía sau Tư dinh là một phối trí phong thủy tuyệt hảo, che
chắn hết mọi bất trắc, rủi ro, không sợ đao kiếm cùng kẻ xấu chém lén sau lưng.
Ông Chỉ Huy Trưởng sẽ yên vị tại chức lâu dài. Tôi không biết nhiều về phong
thủy, cũng không hẳn tin. Tôi chỉ muốn làm một việc tử tế khi có cơ hội để giúp
cho hai người bạn mà tôi rất thương yêu và mến phục.
Sống bên nhà tôi lâu như thế mà gia-đình Ông Long không bao giờ xin ân huệ cho
mình cũng như cho bất cứ ai. Họ sống lặng lẽ, âm thầm gần như cam chịu. Bà Long
thường nói đây là căn nhà vừa ý nhất từ trước đến nay và ao ước được ở đây mãi
mãi.. Niềm ao ước bình thường giản dị ấy không được bao lâu thì Ðà-Nẵng thất
thủ, cuối tháng ba 75. Tai trời ách nước đổ sập xuống, chúng tôi tan tác mỗi người
một nơi.
Tôi thoát đi được trong gang tấc, theo một tàu Mỹ vào Cam Ranh. Tại đây dùng
tàu đò dân-sự vào Vũng Tàu. Khi vừa mới từ bờ ra lại biển khơi, tôi gặp Ông
Long đi trên một ghe đánh cá từ Ðà-Nẵng vào. Tôi đổi tàu cùng Ông xuôi Nam. Về đến Saì-Gòn chia tay
mỗi người một ngã. Tôi tìm cách cùng gia đình thoát thân lần nữa. Qua tới Guam được mấy ngày thì được
tin Long tự sát. Tôi bàng hoàng xúc động, thương Ông suốt một đời lận đận và
kết thúc tức tưởi thế kia. Từ đó tôi bị thúc bách và tự cho như có bổn phận
phải tìm thêm tin tức của Long:
Ở Mỹ, tôi theo dõi các báo lớn ngoại quốc có đăng trang bìa hình Long tự sát
trước tượng đài Thủy Quân Lục Chiến khu tiền đình Trụ Sở Quốc Hội, sắc phục và
cấp bậc Sĩ Quan Cảnh Sát ngay ngắn đàng hoàng, nhưng không có báo nào nói xác
Long ai đem đi đâu. Tôi cứ nghĩ thi thể vô thừa nhận đã bị vùi dập ở một xó
xỉnh nào.
Nhưng không. Khoảng hơn hai tuần sau, Bà Long nhận đươc giấy báo vào nhà thương
Grall nhận xác. Nguyên do là khi tuẫn tiết, trong túi áo Long có thẻ căn cước
địa chỉ 37 Nguyễn Thị Giang, Ðà-Nẵng. Nhà thương cứ theo địa chỉ đó mà báo tin.
Tôi nhớ là cái căn cước bọc nhựa ấy tôi đổi lại cho Long khi vừa mới dọn vào ở
chung, đặc biệt có chữ ký của tôi làm kỷ niệm, không phải chữ ký của Thiếu Tá
Chỉ Huy Phó như những căn cước khác. Tự nhiên tôi có chút suy nghĩ sao mà cái
việc nhỏ nhặt như việc đổi cái thẻ căn cước bọc nhựa năm xưa lại đưa đến một sự
việc quá quan trọng như thế. Cái căn cước có chữ ký của tôi đó không phải vì
nhu-cầu mà chỉ vì chút cảm tình, nhưng lại chính nhờ nó mà gia-đình nhận đươc
xác của Long. Ðây có phải chỉ là một diễn tiến tình cờ hay là một tính toán cẩn
thận của Long. Giả thuyết thứ hai hợp lý hơn.
Ðà-nẵng mất mau quá, Long chưa kịp lãnh lương tháng ba nên nhà không có tiền
vào Sàigon. Tội nghiệp chỉ có cô Tâm, con thứ ba vào nhận xác. Tới SàiGòn ngày
17 tháng 5 cô Tâm cùng với một người chị thứ hai tên Ðào và người em gái tên
Thuận đang làm việc ở Sai-Gòn tới nhà thương Grall. Tại dây nhân viên Bệnh
Viện, như có được lệnh của Ban Giám Ðốc, đã dành mọi dễ dàng, chỉ vẽ tận tâm
chu đáo và tỏ ra có thiện cảm đặc biệt với người chết. Họ tắm rửa, thoa thuốc,
uốn nắn và chăm sóc thi thể nhẹ nhàng tử tế đến độ làm các con cảm-động và ngạc
nhiên. Ngày chôn cất có ban hậu sự Nhà Thương sắc phục và xe tang đàng hoàng,
khoan thai đưa tiễn tới Nghĩa Trang. Tất cả đều hoàn toàn miễn phí. Thi hài
được mai táng tại Nghĩa Trang Giáo Xứ Công Giáo Bà Quẹo với đầy đủ lễ nghi tôn
giáo. Có Linh-Mục đến làm phép xác. Rõ ràng là cái chết công khai và lẩm liệt
của một Anh Hùng vị Quốc vong thân, ngay lập tức đã có người trân trọng. Ít năm
sau gia đình cải táng. Lần này thì khăn tang trắng một vùng, đầy đủ vợ và các
con, các cháu, xác được hỏa thiêu. Tro ký thác tại Nhà Thờ Dòng Chúa Cứu Thế
Sài-Gòn, đường Kỳ Ðồng.
***
Ngày mất nước 30 tháng 4 năm 75, khi biết mọi sự đã hỏng hết, nhiều Tướng Lãnh,
Sĩ Quan, Binh Lính, Cảnh Sát và cả nhân- viên Dân Chính đã tự sát tại nhiều nơi
và bằng nhiều cách, cách nào cũng nói lên chí khí bất khuất không đầu hàng,
không để cho thân rơi vào tay giặc. Nhưng cái chết của Trung Tá Nguyễn văn Long
mới được cả thế giới biết đến mau nhất, gây xúc động mạnh nhất. Long đã chọn
cách thế, giờ giấc cho cái chết có mục đích tại một địa điểm không thể có nơi
nào thích hợp hơn. Trước Tòa Nhà Quốc Hội, dưới chân Tượng Ðài Chiến Sĩ là nơi
biểu tương Trái Tim đang thoi thóp của Miền Nam.
Ông đã nằm xuống đó để chấm dứt nhịp đập trái tim Ông. Ông dâng hiến máu tươi
và mạch sống cho Tổ Quốc. Khỏi cần phải luận bàn dông dài, cả thế giới cùng công
nhận Long đã bình tĩnh sửa soạn cho cái chết từng chi-tiết. Long mặc sắc phục,
cấp bậc chỉnh tề, thẻ căn cước cài trong túi áo. Trước lúc bắn vào đầu, Long
đứng nghiêm, chào kính Tượng Ðài rồi khoan thai nằm xuống. Chỉ một phát súng
dứt khoát và chính xác, Long anh dũng đền ơn nước.
Ðã một thời sống gần và làm việc chung, tôi thương mến Long lúc sinh thời, kính
phục Long khi đã chết và sẽ mãi mãi nhớ Long. Cái chết của Long là một cái chết
bất tử.
Máu Trung Tá Long đã thấm
xuống lòng đất mẹ.

Ở tấm hình này, chiếc mũ đã
bị ai đó lấy mất.

Hình tuẫn tiết của anh hùng
Nguyễn Văn Long, trung tá Cảnh Sát Quốc Gia Việt Nam Cộng Hoà trong ngày
30-4-1975 dưới chân tượng đài Thủy Quân Lục Chiến đối diện trụ sở Hạ Nghị Viên
VNCH.
Nguồn: http://batkhuat.net/tl-trungta-nguyenvanlong.htm