Ý Nghĩa và Lịch Sử
Ngày Quân Lực 19-6-1965
(06/20/2013)
Tác giả : Giao Chỉ, San Jose
Lịch sử miền Nam Việt Nam của chúng ta ngoài bất
hạnh to lớn là ngày mất nước tan hàng 30 tháng 4-1975 còn có những
bất hạnh nhỏ cũng khá đau thương.
Nếu chúng ta có những ngày ghi dấu rõ ràng như giỗ Tổ Hùng Vương,
Hai bà Trưng, rồi trải qua các triều đại anh hùng chiến đấu chống
Bắc phương của thời xưa thì ngày tháng lịch sử của một trăm năm qua
có nhiều điều phiền muộn.
Không thể kể đến các ngày tháng mà phe cộng sản ồn ào tưởng
niệm, riêng miền Nam chúng ta vẫn còn nhớ ngày 20 tháng 7-1954 chia đôi
đất nước. Rồi đến 30 tháng 4-1975 mất nốt miền Nam. Phải chăng chúng
ta có đến 2 ngày Quốc Khánh nhưng chẳng ngày nào được coi là toàn
quân toàn dân đồng thuận.
Ngày 26 tháng 10 của nền đệ nhất Cộng Hòa với thủ tướng Ngô Đình
Diệm cũng phải trả giá mở đầu bằng cuộc truất phế ông vua cuối
cùng của triều Nguyễn và chấm dứt bằng cái chết của vị tổng
thống. Qua nền đệ nhị Cộng Hòa của trung tướng Nguyễn Văn Thiệu đã
ra đời bắt đầu bằng một ngày Quốc Khánh mới 1 tháng 11. Ở giữa 2
nền Cộng Hòa có ngày 19-6-1965.
Ngày mà ông thủ tướng Kỳ gọi là ngày quân đội lên cầm quyền. Đó là
ngày được chọn là ngày Quân Lực, chúng ta vẫn tưởng nhớ và kỷ niệm
cho đến nay. Tại hải ngoại đây là ngày quân lực lần thứ 48.
Mấy năm qua, tác giả Huỳnh Văn Lang vốn là công chức quan trọng
thời đệ nhất Cộng Hòa, khi viết sách và ra mắt tại San Jose đã gọi
đệ nhị Cộng Hòa là giai đoạn người lính cầm quyền. Dù rất kính
trọng cụ Huỳnh là bậc cao niên uyên bác nhưng tôi vẫn không đồng ý.
Lính tráng anh em chúng tôi tuyệt đại đa số ở cấp dưới, không hề
dính dáng gì đến cái gọi là công việc cầm quyền của một số rất
ít các tướng lãnh.
Mặc dù không thích cái ý nghĩa lịch sử của ngày Quân lực, nhưng
không phải vì vậy mà chúng tôi không tôn trọng nó. Đây chính là điều
hẹn ước, đây chính là một sự thỏa hiệp. Đây là cái cây của tình
chiến hữu, phải chăm sóc mới tồn tại và phải tưới nước bón phân
mới sống được. Nhiều năm qua tại San Jose luôn luôn có đến 2 ngày Quân
lực. Hai địa điểm, hai tổ chức, cùng một ngày. Năm nay đã khá hơn,
chỉ có một ngày nhưng lại có hai ban đại diên cộng đồng cùng chính
thức.
Việc chia rẽ từ nhiều năm tưởng ngày nay đã có thể hàn gắn, nhưng
hợp được chỗ này thì lại tan ở chỗ khác. Sau cùng, khi nói chuyện
cũ vẫn có anh em trẻ hỏi rằng tại sao ngày xưa không lựa chọn một
ngày nào khác có ý nghĩa và không hệ lụy với biến chuyển thời sự
cuả các triều đại. Bèn kể lại chuyện lịch sử ngày Quân lực như sau:
48 lần Quân Lực, một cựu chiến binh, viết cho đời lính.
Tôi đã từng đọc biết bao lần về lịch sử Ngày Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa. Mỗi lần đọc là một lần khắc khoải, nhưng rồi bụng lại
bảo dạ, thôi không than thở nữa. Lần này vào dịp Quân Lực 19 tháng 6
năm 2013, xin nhắc lại một chút tâm sự.
Cũng như quý vị, chúng tôi không thích cái ý nghĩa nguyên thủy của
Ngày Quân Lực mà ông thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ đã khoe rằng, ông là
cha đẻ. Chẳng phải bây giờ mới nói ra cái chuyện cũ kỹ đó, chúng
tôi đã từng viết ra cảm nghĩ ray rứt ngay từ 48 năm về trước. Ngay từ
ngày đó cũng đã vất vả về cây bút.
Số là ngay sau khi đảo chính ông Diệm, tôi là sĩ quan đại diện Quân
Khu I từ miền Đông lên họp Tổng Tham Mưu về đề tài đi tìm một ngày
ghi dấu cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Anh em trong ủy ban các cấp
ngồi bàn thảo. Lấy biết bao nhiêu ngày tháng lịch sử từ Bắc vào
Nam, từ 1950 đến 1965 để đưa ra lựa chọn.
Suốt cả chiều dài của lịch sử đều là những ngày tháng có liên
quan đến việc hình thành quân đội quốc gia, nhưng chẳng chọn được
ngày nào cho trọn vẹn ý nghĩa. Cái đắng cay của vấn đề là giai
đoạn trước di cư 54, nghị định văn thư và hồ sơ thành lập đơn vị Việt
Nam đều bằng tiếng Pháp và từ bộ tư lệnh quân đội Viễn Chinh đưa
xuống. Lệnh cho thành lập BVN gọi là các tiểu đoàn Việt Nam cũng
bằng Pháp văn. Lệnh cho tiểu đoàn 5 nhảy dù Việt Nam vào Điện Biên
Phủ cũng do tướng Pháp ký. Tiểu đoàn trưởng cũng là người Pháp.
Đọc lịch sử quân đội quốc gia trước thời 1954, bộ tổng tham mưu Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa tại Sài Gòn chưa tìm được một ngày cho đủ ý
nghĩa của Quân Lực. Sau 1954 thì cũng có một số ngày tháng được
trình lên để duyệt xét. Bản phúc trình có ghi lại một số dữ kiện
mà ký ức mòn mỏi của tôi còn hình dung được một vài chi tiết như
sau:
Thời kỳ 46 – 47, quân đội Liên Hiệp Pháp bắt đầu tuyển mộ tân binh
Việt Nam, các đơn vị bổ túc ra đời, các đại đội nhảy dù lính Việt
do sĩ quan Pháp chỉ huy. Hiệp ước Hạ Long ngày 6 tháng 6-1948, vua Bảo
Đại nhân danh Quốc Trưởng ký với Pháp có điều khoản thành lập Quân
Đội Quốc Gia.
Ngày 1 tháng 6-1949, khóa sĩ quan Việt Nam đầu tiên mở ra tại Huế.
Bốn tiểu đoàn Việt Nam thành lập. Trong Nam
là tiểu đoàn 1 Bạc Liêu và tiểu đoàn 3 Rạch Giá. Ngoài Bắc, tiểu
đoàn 2 Thái Bình và tiểu đoàn 4 Hưng Yên. Tiểu khu Hưng Yên ngày đó
là thời kỳ các sĩ quan trẻ gặp nhau. Trung úy Nguyễn Văn Thiệu, trung
úy Cao Văn Viên và đại úy Trần Thiện Khiêm. Sau này trở thành tổng
thống, thủ tướng và đại tướng tổng tham mưu trưởng. Đến khi tập hợp
vào miền Nam, Quân Đội Quốc Gia gia tăng dần lên 60,000 quân nhưng chưa
có được một ngày quân lực mang ý nghĩa rõ ràng.
Phía chính phủ trước đó thì đã có ngày Quốc Khánh 26 tháng 10
tổ chức duyệt binh hàng năm ghi dấu Đệ Nhất Cộng Hòa của tổng thống
Ngô Đình Diệm.
Sau đó là đến thời kỳ đảo chính và những năm xáo trộn giữa các
tướng lãnh với cả chục lần binh biến. Tuy nhiên, sau cùng miền Nam đã
gượng gạo nhận ngày cách mạng 1 tháng 11 làm ngày Quốc Khánh mới.
Tiếp theo, với sức ép của Hoa Kỳ và đòi hỏi của dân chúng, các
vị tướng lãnh của thời kỳ hỗn loạn chính trị ở miền Nam đã miễn
cưỡng lập ra một chính phủ dân sự tạm thời với cụ Phan Khắc Sửu
làm quốc trưởng và ông Phan Huy Quát làm thủ tướng. Tuy nhiên, các vị
chính khách dân sự này không đủ bản lãnh để lãnh đạo đất nước trong
một hoàn cảnh rất đen tối và phức tạp. Biết bao nhiêu tranh chấp
giữa các đảng phái, các tôn giáo và rất nhiều khó khăn trong hoàn
cảnh chiến tranh ngày một gia tăng và Mỹ ào ạt đổ quân vào Việt Nam
để chặn đứng làn sóng đỏ. Thêm vào đó, quốc trưởng và thủ tướng
lại bất đồng ý kiến nên nội các dân sự bèn tuyên bố bỏ cuộc, trao
quyền lại cho các tướng lãnh. Các tướng lãnh niên trưởng của chúng
ta rất vui mừng họp bàn để nhảy ra chính trường gọi là nhận trách
nhiệm lịch sử. Một cách hết sức khách sáo, các xếp vẫn nói là
muốn rửa tay chính trị, không ham quyền lực nhưng tình thế bắt buộc
phải ra nhận lãnh. Nhân danh quân đội, các đàn anh niên trưởng của
chúng tôi vẫn đeo sao trên cổ áo, ngồi hội nghị tranh cãi suốt ba
ngày, đưa ông Thiệu, ông Kỳ ra cai trị đất nước gọi là ngày quân đội
đứng lên làm lịch sử 19 tháng 6-1965.
Tôi còn nhớ, hôm đó tôi ngồi trên máy bay vận tải C130 của Hoa Kỳ
bay từ Sông Bé về Sài Gòn. Chuyện như đùa mà là sự thật. Một viên
đạn lẻ loi của địch dưới đất bắn lên lúc phi cơ mới cất cánh, thủng
sàn tàu và xuyên qua hàm anh đại úy ngồi cạnh chúng tôi. Khi phi cơ
đáp khẩn cấp xuống Biên Hòa, đưa vào bệnh viện thì anh bạn qua đời.
Không bao giờ tôi quên được ngày 19 tháng 6 đó. Tình cảm chân thành
với quân đội thì luôn luôn gắn bó, nhưng bảo cái ngày đó là ngày
toàn quân đứng lên làm lịch sử thì thưa Thiếu Tướng, Chủ tịch Ủy ban
Hành pháp Trung ương, việc này chỉ có các xếp làm với nhau chứ đâu
có ăn nhập gì đến toàn quân. Bộ chỉ huy tiền phương của quân khu đang
nằm ở chiến hào Sông Bé mà lại đứng lên là ăn pháo địch hay là bị
bắn sẻ chết ngay, chứ đứng lên làm lịch sử chỗ nào.
Với bút hiệu Lính Chiến, tôi viết báo Chính Luận cho tổng thư ký
Từ Chung qua mục “Một tuần vòng chân trời quân sự”. Tôi đã đưa quan
điểm như trên. An Ninh Quân Đội của Quân Khu I ở Thủ Đức đã mời Thiếu
tá Vũ Văn Lộc lên hỏi thăm sức khỏe. Gặp anh bạn quen nói rằng, “Thôi
ông ơi, ông làm ơn nghỉ viết lách cho chúng tôi nhờ. Thời ông Diệm lên
thì có 26 tháng 10. Đến thời ông Minh thì 1 tháng 11. Bây giờ ông Kỳ
thì chọn 19 tháng 6. Tuy nhiên, ngày đó các xếp đã chọn thì cứ coi
như một hẹn ước giữa anh em mình. Bàn làm gì chuyện xa xôi cho thêm
phiền. Ông thông cảm với tôi để rồi mời ông về lại bộ tư lệnh Tiền
Phương để làm lịch sử của riêng ông. Viết lách làm gì cho rắc rối.”
Đó là anh bạn đại úy an ninh quân đội đã nói chuyện với tôi đầu
năm 1966. Năm đầu tiên có Ngày Quân Lực. Cho đến năm nay là 48 năm. Đúng
như vậy, anh bạn cũ nhân danh An Ninh Quân Đội ngày xưa tra vấn tôi, nay
đã qua đời. Nhưng lời chiến hữu nói ra vẫn còn ở lại.
Quả thật, 19 tháng 6 hàng năm đối với chúng tôi chỉ là một ngày
hẹn ước để gặp nhau. Người tự nhận là khai sinh cho 19 tháng 6 là ông
thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ nay đã quay lưng lại anh em, sau cùng ông
cũng đã ra đi. Vị chủ tịch ký giấy ban hành nghị định 19 tháng 6 là
trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, từ lâu đã trở thành người thiên cổ.
Vậy thì, nếu đã nhìn thấy những cay đắng của lịch sử như thế
thì cái ý nghĩa của ngày 19 tháng 6 của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
nằm ở chỗ nào.
Gần 50 năm trước, tôi đã bình phẩm về sự lựa chọn của ông tướng
tàu bay có vẻ chơi ép anh em. Ngày ông xuất chính ra làm quan thủ
tướng mà bảo rằng toàn quân phải nhớ mãi về sau thì nghe sao lọt
tai.
Nghĩ như thế mà sao mỗi năm đến 19 tháng 6 vẫn thấy lòng rung
động. Kỷ niệm 19 tháng 6 lần thứ nhất vào năm 1966 làm trong Bộ Tổng
Tham Mưu. Năm sau 1967, duyệt binh lớn ở đường Trần Hưng Đạo.
Rồi từ đó mỗi năm là có Ngày Quân Lực. Lúc làm quy mô, lúc thì
thu hẹp. Cho đến năm 1973, sau khi vừa ký hiệp định Paris thì Tổng Tham
Mưu tổ chức một cuộc duyệt binh vĩ đại đã được ghi vào bộ hình
lịch sử ngày nay vẫn còn có dịp coi lại trên DVD. Năm đó chúng tôi
tham dự trong ủy ban tổ chức do bộ Tổng Tham Mưu. Xin nhắc lại một
vài kỷ niệm đáng ghi nhớ.
Trước đó một tuần, anh hùng quân đội từ các đơn vị được chào đón
tại thủ đô, dẫn đi thăm các danh lam thắng cảnh và các công xưởng quân
đội. Các đoàn thể và thương gia khoản đãi đại tiệc suốt tuần. Thủ
tướng Trần Thiện Khiêm và phái đoàn chính phủ lên làm lễ tại Nghĩa
Trang Biên Hòa.
Khu Nghĩa Trang Quân Đội vào đầu tháng 6-1973 đã là nơi yên nghỉ
gần 15 ngàn chiến sĩ, chiếm một nửa toàn thể khu vực dự trù cho 30
ngàn phần mộ. Các trận đánh khốc liệt từ 1968 Mậu Thân đến 1972 Mùa
Hè Đỏ Lửa đều có đại diện Hải Lục Không Quân về nằm dưới lòng đất
lạnh.
Tiếp theo ngày 19 tháng 6-1973, các đơn vị Hải Lục, Không Quân, các
quân đoàn, các binh chủng, địa phương quân, nhân dân tự vệ, xây dựng
nông thôn, thiếu sinh quân và nữ quân nhân đều có mặt tham dự một cuộc
diễn hành lịch sử được coi là xuất sắc nhất. Và cũng thật đau
thương, đây là cuộc diễn hành cuối cùng của Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa. Đoạn phim được dân Hà Nội coi lén sau 1975 hết sức trầm trồ là
đoàn diễn hành nữ quân nhân. Nhịp bước quân hành của các thiếu nữ
trong quân phục đã làm cho rung động cô sinh viên văn khoa Nông Thị Thanh
Nga. Sau khi xem diễn hành ở đường Trần Hưng Đạo, cô ghi tên vào học
niên khóa 1973-1974 để sau này ra trường trở thành thiếu úy huấn
luyện viên cho đến lúc tan hàng tháng 4-1975.
Ngày nay cô thiếu úy của quân đội Sài Gòn trở thành quả phụ bán
hàng rong ở vỉa hè chợ Tân Định. Hàng năm đem vàng hương lên Nghĩa
Trang Quân Đội Biên Hòa nhớ về ngày 19 tháng 6.
Nhưng bây giờ chúng ta hãy trở lại với Ngày Quân Lực năm 1973. Sau
buổi diễn hành, tổng thống đãi tiệc buổi trưa các anh hùng quân đội
tại Dinh Độc Lập. Buổi chiều thủ tướng khánh thành khu triển lãm
của Hải Lục Không Quân và các công xưởng tiếp vận.
Buổi tối là cuộc rước đuốc và xe hoa. Hàng ngàn ngọn đuốc sáng
rực đô thành Sài Gòn hoa lệ tưởng chừng như hòn ngọc viễn đông sẽ
vĩnh viễn sống mãi với Việt Nam Cộng Hòa. Cùng buổi tối, đại tướng
Tổng Tham Mưu Trưởng tiếp tân tại Bộ Tổng Tham Mưu. Tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu, phó tổng thống Trần Văn Hương, thủ tướng Trần Thiện Khiêm,
toàn thể nội các, ngoại giao đoàn, phái đoàn quốc hội và các anh
hùng quân đội tham dự đêm văn nghệ của biệt đoàn trung ương. Ngày vui
quân lực của cả một thời xưa xa cách 48 năm tưởng chừng như mới hôm
qua.
Bây giờ năm 2013 đã trải qua 48 năm quân lực. Nếu ngày 19 tháng
6-1975, đất nước mà còn giữ được thì Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa
sẽ có lễ khánh thành đợt sau cùng với Nghĩa Dũng Đài hoàn tất cao
ngất từng không, rực rỡ hàng đèn hai bên lối đi. Khu mộ chí tướng
lãnh nằm ở vòng trong, rồi đến sĩ quan các cấp và hàng binh sĩ. Ba
chục lô đất dành riêng cho đến ngày 30 tháng 4 đã lấp đầy 16 ngàn tử
sĩ. Tính đến nay, các gia đình đã cải táng di chuyển 4,000 và vẫn còn
12,000 ngôi mộ với cỏ gai lấp đầy lối vào.
Ngày 19 tháng 6 năm 2012 vừa qua, chỉ còn một số thương phế binh
Biệt Khu Thủ Đô lên tảo mộ chui, được đến đâu hay đến đó. Các di vật
của Liên Đội Chung Sự và của quân lực đã thu về Viện Bảo Tàng tại San
Jose. Sau cùng, năm nay chúng tôi cũng có hình
ảnh về ngày quân lực tại nghĩa trang Biên Hòa nhưng để tránh khó khăn
chúng tôi cử người tưởng niệm quân lực vào cuối tháng 5-2013. Bất cứ
lúc nào thì các bạn chiến binh vẫn nằm chờ mãi mãi ngàn năm.
Giao Chỉ, San Jose
http://chauxuannguyen.org/2013/06/21/y-nghi%CC%83a-va-li%CC%A3ch-su%CC%89-ngay-quan-lu%CC%A3c-19-6-1965/