Chúng Ta Đã Và Đang Mất Nước
GS Phạm-cao-Dương

Việt Cọng đang bán nước,
ngưòi dân phải tiêu diệt chúng để cứu nước
Nói về hiện tình đất nước ở vào thời điểm 2013 mà không nói tới
tham vọng và cuộc xâm lăng của người Tàu, cuộc xâm lăng mới nhất, đang xảy ra
trên lãnh thổ của nước ta là một điều vô cùng thiếu sót. Vì vậy thay vì góp
thêm nhận định về hiện trạng kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục ở trong nước
hiện tại, tôi xin phép Ban Tổ Chức và toàn thể quý vị cho tôi được nói đôi chút
về đề tài nóng bỏng này, đề tài tôi tạm gọi là “ Chúng Ta đã và Đang Mất
Nước” .
Vì thời giờ có hạn, tôi chỉ xin nói ra những điểm chính. Sau buổi
hội thảo ngày hôm nay tôi sẽ xin ghi lại những chi tiết đầy đủ hơn và sẽ xin
gửi tới quý vị sau. Cũng vì thì giờ có hạn, tôi sẽ không nói tới hay đúng ra
không nói nhiều về Biển Đông với các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và Đường Lưỡi
Bò của Trung Cộng và những gì đế quốc mới này đã và đang làm ở trong vùng biển
này như thành lập Thành Phố Tam Sa, thiết lập các cơ cấu hành chánh, chánh trị,
quân sự, đưa các tàu hải tuần xuống đe dọa các quốc gia liên hệ, chặn bắt các
tàu đánh cá của ngư dân, đặc biệt là ngư dân Việt Nam… Lý do là vì tất cả đã
trở thành đề tài thời sự thế giới, được nói tới gần như hàng tuần và luôn cả
hàng ngày trên các đài phát thanh, các đài truyền hình quốc tế cũng như các đài
phát thanh, đài truyền hình của người Việt, trên các trang mạng từ nhiều năm
nay và đương nhiên trong những buổi gặp gỡ giữa anh em, bạn bè chúng ta. Tôi
cũng không nói hay nói rất ít về bản “Tuyên Cáo về việc Nhà Cầm Quyền Trung
Quốc Liên Tục Có Những Hành Động Gây Hấn, Xâm Phạm Nghiêm Trọng Chủ Quyền Toàn
Vẹn Lãnh Thổ Việt Nam Trên Biển Đông” , ngày 25 tháng 6 năm 2011 và bản “Kiến
Nghị Về Bảo Vệ Và Phát Triển Đất Nước Trong Tình Hình Hiện Nay” của các
nhân sĩ, trí thức nổi tiếng ở trong nước gửi Quốc Hội Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam và Bộ Chính Trị Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam
ngày 10 tháng 7 cùng năm và nhiều kiến nghị khác mà mọi người đều biết trước là
sẽ không bao giờ được trả lời hay chỉ được trả lời quanh co hay gián tiếp.
Tôi cũng không nói hay nói rất ít về lối trả lời gián tiếp các nhà
trí thức kể trên của Đảng CSVN xuyên qua một bài báo đăng trên tờ Đại Đoàn
Kết theo đó những người cầm quyền ở Việt Nam hiện tại đã tỏ ra vô cùng lúng
túng trước câu hỏi về bản công hàm của Phạm Văn Đồng nhân danh Thủ Tướng Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hoà gửi Chu Ân Lai, Chủ Tịch Quốc Vụ Viện nước Cộng Hoà Nhân
Dân Trung Hoa, ngày 14 tháng 9 năm 1958. Đây là lần đầu tiên những người cầm
đầu Đảng Cộng Sản Việt Nam, đã thừa nhận là họ đã lựa chọn nhường các quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Cộng để đổi lấy sự giúp đỡ của Trung Cộng trong
cuộc xâm chiếm Miền Nam bằng vũ lực của họ sau đó. Đây cũng là lần đầu tiên họ,
những người cầm đầu Đảng Cộng Sản Việt Nam, công nhận các chính phủ Quốc Gia
Việt Nam thời Quốc trưởng Bảo Đại và sau đó là Việt Nam Cộng Hòa là những chính
phủ hợp pháp có trách vụ quản trị các quần đảo này theo Hiệp Định Genève cũng
như những nỗ lực không thể chối cãi mà những chính phủ quốc gia này đã làm để
bảo vệ các quần đảo này trong suốt thời gian các chính phủ này tồn tại.
Lý do chính yếu khiến tôi không nói hay chỉ nói rất it về những sự
kiện kể trên là vì tất cả hiện thời ở Biển Đông và các quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa mới chỉ là diện, là bề ngoài, là mới chỉ là bắt đầu. Tất cả rồi cũng
sẽ được giữ nguyên trạng trong một thời gian dài và dù muốn hay không Hoàng Sa
cũng đã mất rồi, còn Trường Sa thì cũng mất nhiều phần, còn nhiều thế hệ nữa
Việt Nam mới có thể lấy lại được hay có cơ hội lấy lại được. Trung Hoa Cộng Sản
trong mọi hoàn cảnh cũng đã chiếm được và giữ được những phần quan trọng kể từ
sau khi họ chiếm Hoàng Sa từ trong tay Việt Nam Cộng Hòa hồi tháng Giêng năm
1974 trong sự im lặng, đồng lõa của chính quyền Cộng Sản Hà Nội. Cái giá để cho
Đảng CSVN xâm chiếm miền Nam và thống nhất đất nước ta bằng võ lực
phải nói là quá đắt cho dân tộc Việt Nam và cho chính họ.
Hoàng Sa, Trường Sa hay rộng hơn Biển Đông chỉ là những gì nổi bật
bề ngoài, là cái diện ai cũng có thể thấy được trong tiến trình mất nước của
dân tộc Việt Nam đầu Thế Kỷ 21 này. Vậy thì cái điểm nằm ở đâu? Thưa quí vị, nó
nằm ngay trên đất liền, trên lãnh thổ của chính quốc Việt Nam. Nó nằm rải rác ở khắp lãnh thổ nước ta
chứ không riêng ở biên giới phía bắc, đành rằng ở biên giới phía bắc, người ta
đã ghi nhận những sự nhổ và lui cột mốc, sự mất ba phần tư Thác Bản Giốc, những
sự chiếm giữ các cao điểm có tính cách chiến lược từ trước và sau trận chiến
1979 giữa hai đảng Cộng Sản Á Châu và có thể từ xa hơn nữa, từ đầu thập niên
1950, khi CSVN mở cửa biên giới phía bắc để nhận viện trợ của Trung Cộng nhằm tiếp
tục cuộc chiến tranh chống Pháp và gián tiếp chống lại chính quyền Quốc Gia
Việt Nam lúc đó đã được thành lập bởi Cựu Hoàng Bảo Đại. Những thắc mắc về sự
mất mát này cho tới nay vẫn chưa được hoàn toàn giải toả dầu cho đã được nhiều
người đòi hỏi. Tôi sẽ nói thêm ở phần cuối về vấn đề này. Có điều là đến giờ
thì hai bên đã ký kết những thỏa ước và những cột mốc mới đã khởi sự được “cắm”
rồi. Những điểm này tuy nhiên chỉ là ở dọc vùng biên giới. Quan trọng hơn và
nguy hiểm hơn, bức thiết hơn là những điểm, mà không phải là điểm hiểu theo ý
nghĩa đen của danh từ, nằm sâu ngay trong lãnh thổ của tổ quốc Việt Nam, dưới
quyền quản lý của chính quyền Cộng Sản hiện tại nhưng vượt ra ngoài sự kiểm
soát của chính quyền này. Những điểm vừa cố định, nằm nguyên một chỗ, vừa di
động khắp nơi trên lãnh thổ, điển hình là những mỏ bauxite trên cao nguyên,
những khu rừng đầu nguồn nằm ở cửa ngõ của những vùng biên giới Việt-Trung và
Lào-Việt , những khu vực trúng thầu, những địa điểm thu mua các nông sản, những
vùng nông dân bỏ trồng lúa, trồng khoai, những trại nuôi cá, điển hình là trại
nằm không xa quân cảng Cam Ranh là bao nhiêu mà các nhà cầm quyền địa phương
sau cả gần chục năm không hề biết, những khu phố kiểu Đông Đô Đại Phố ở Bình
Dương … Tất cả đã trở thành những “thực dân địa” của người Tầu ngay trong lòng
của lãnh thổ Việt Nam, nơi những ủy ban nhân dân vẫn còn làm chủ. Nói cách
khác, theo lời của các tác giả của Bản “Kiến Nghị Về Bảo Vệ Và Phát Triển
Đất Nước …” ngày 10 tháng 7 năm 2011 mà tôi đã dẫn trên đây thì “…mặt
trận nguy hiểm nhất đối với nuớc ta mà Trung Quốc muốn dồn quyền lực và ảnh
hưởng để thực hiện, đó là: thâm nhập, lũng đoạn mọi mặt đời sống kinh tế, chính
trị, văn hoá của nước ta. Đó là mặt trận vừa uy hiếp, vừa dụ dỗ nước ta nhân
danh cùng nhau gìn giữ ý thức hệ xã hội chủ nghĩa, gây chia rẽ giữa nhân dân ta
và chế độ chính trị của đất nước, vừa lũng đoạn nội bộ lãnh đạo nước ta, làm
suy yếu khối đại đoàn kết thống nhất của dân tộc ta, làm giảm sút khả năng gìn
giữ an ninh và quốc phòng của nước ta. Đánh thắng nước ta trên mặt trận nguy
hiểm nhất này, Trung Quốc sẽ đánh thắng tất cả.” Nói cách khác đó là chiến
lược dùng quyền lực mềm thọc sâu vào lãnh thổ Việt Nam để nhẹ ra là đưa Việt Nam đến chỗ phụ thuộc hoàn toàn vào Trung
Quốc, còn nặng ra là chiếm luôn cả nước. Đến lúc đó thì Hoàng Sa, Trường Sa và
Đường Lưỡi Bò đương nhiên sẽ trở thành biển đảo của Trung Quốc.
Hãy tưởng tượng ngay trên Cao Nguyên Miền Nam, địa diểm chiến lược
quan trọng nhất đã chi phối toàn bộ an ninh của miền nam Việt Nam và sự thống
nhất của lãnh thổ quốc gia trong quá khứ, trong một khu vực rộng lớn, nằm ngoài
sự kiểm soát của cả chính quyền trung ương lẫn chính quyền địa phương của người
Việt, là một khu vực dành riêng cho người Tầu, không ai được nhòm ngó, không ai
được ra vào. Họ được tự do mang người của họ vô, mang người của họ ra, được chở
đồ của họ vô, chở đồ của họ ra một cách tự do, thong thả không qua một sự kiểm
soát nào. Những người này là những người nào? những đồ này là những đồ gì ? Làm
sao biết được, ai mà biết được… cho đến biến cố tầy trời nổ ra? Cũng vậy, ở
những khu rừng đầu nguồn và ở những địa điểm của những công trình xây cất có
tính cách căn bản nhằm cung cấp điện năng, khoáng sản, dầu khí… những lãnh vực
thuộc loại tối quan trọng liên hệ tới an ninh của quốc gia. Hãy nhìn vào con số
90% các “gói thầu” thuộc loại này được mở ra ở trong nước đã lọt vào tay các
nhà thầu Trung Cộng. Nhiều gói lên tới hàng tỷ Mỹ kim với những món tiền lót
tay không phải là nhỏ, từ 10% đến 15% tiền thầu. Hậu quả là những công trình do
họ thực hiện phần lớn có phẩm chất kém, thời gian thi công kéo dài trong khi
các nhà thầu Việt Nam, vì không đủ vốn, không đủ thế lực chỉ
còn bất lực, đứng bên lề các đại công trường trên đất nước mình. Nhưng nguy
hiểm hơn hết vẫn là nạn nhân công người Tầu do chính các chủ thầu người nước họ
mang sang để lao động thay vì các nhân công bản xứ. Ở khắp nơi, từ Quảng Ninh,
Hải Phòng, Đồ Sơn đến Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, đến Đà Nẵng rồi vô tới
Bình Dương và Cà Mau… chỗ nào có nhân công người Tầu đều có những khu cư xá
riêng cho họ, kèm theo là các chợ búa, các cửa hàng, các trung tâm dịch vụ, các
nhà nghỉ, các quán cà phê, karaoke mang chữ Tàu… để phục vụ cho họ. Người Việt
Nam không riêng chỉ có thể đứng nhìn mà còn trở thành nạn nhân của tất cả những
tệ hại do họ gây ra như ăn uống, nhậu say không trả tiền, phá phách, tiểu bậy,
trêu gái, đánh lộn , kéo hàng trăm người đánh hội đồng người bản xứ khi có
tranh chấp…
Những người Tầu được gửi sang Việt Nam để lao động kể trên thuộc thành phần nào?
Họ có phải thuần túy là dân lao động có tay nghề hay là những quân nhân thuộc
những đơn vị đặc biệt, những đặc công tình báo được gửi sang để thực hiện một
mưu đồ hiểm độc lâu dài hơn? Hiện tại chưa có gì là rõ ràng mà chỉ là ức đoán.

Vùng Tây Nguyên đã thực sự
là của Tàu
Có điều là họ hiện diện ở khắp nơi trên toàn quốc Việt Nam
mà các nhà cầm quyền từ trung ương đến địa phương đều đã không kiểm soát được
hay làm lơ không kiểm soát. Mặt khác, nếu nhìn vào những gì Trung Cộng đã làm ở
Tân Cương, ở Mông Cổ và luôn cả ở Tây Tạng trong thời gian gần đây thì không ai
là không khỏi lo ngại. Tỷ lệ số người gốc Hán ở các xứ này đã tăng gia dáng kể
và sự cạnh tranh cũng như kỳ thị với sự thiên vị của nhà cầm quyền đã gây nên
những cuộc bạo loạn trầm trọng. Liệu Việt Nam
có thể tránh khỏi tình trạng đang xảy ra cho các nước này hay không? Ta không
được biết, nhưng chỉ nhìn vào miền cao nguyên với các công trình khai thác
bauxite, với lượng nhân công gốc Tầu đông đảo, phần lớn là những thanh niên
chưa có hay không có vợ, hậu quả của nạn giới hạn hai con của chính quyền Trung
Cộng người ta không thể không lo ngại cho tương lai của miền đất chiến lược
quan trọng bậc nhất của đất nước Việt Nam này, miền đất mà Hoàng Đế Bảo Đại coi
trọng đặc biệt với danh xưng Hoàng Triều Cương Thổ. Những thanh niên này sẽ lấy
các thiếu nữ Thượng, sẽ sinh con đẻ cái và tất cả sẽ trở thành công dân xứ
Thượng. Nếu điều này xảy ra thì rất là êm thắm, chỉ trong vòng hai thế hệ hay
ba chục năm, chưa tới năm mươi năm, thời gian thuê các rừng đầu nguồn với giá
rẻ mạt, những người Thượng gốc Tàu sẽ trở thành chủ nhân của các cao nguyên và
qua một cuộc đầu phiếu êm ả và hợp pháp, miền đất rộng lớn, nhiều tài nguyên
này sẽ trở thành của Tầu và biết đâu qua một tiến trình tương tự toàn bộ cả
nước Việt Nam sẽ trở thành một tỉnh mới của nước Tầu, tỉnh Quảng Nam rộng trên
ba trăm ngàn cây số vuông hay hơn nữa nếu bao gồm cả hai nước Lào và Căm bốt,
sau hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, biên giới phía nam nước Tầu sẽ được mở rộng
tới Vịnh Thái Lan về phía nam và về phía tây, tới bờ sông Cửu Long. Đó chính là
ước mơ của những người tự nhận là Đại Hán mà suốt một ngàn năm vừa qua họ không
đạt được. Điều này không phải là không thể đến cho dân tộc Việt Nam,
dân tộc Lào và dân tộc Căm-pu-chia trong nửa thế kỷ tới. Tất cả sẽ có thể xảy
ra một cách bất ngờ “trước khi người lính của chúng ta được quyền nổ súng” nói
theo lời của một tướng lãnh của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam
trong một đoạn video được phổ biến rất rộng rãi và trong một thời gian dài
trước đây. Chỉ tiếc là tính cách chính xác của đoạn video này cho tới nay chưa
được phối kiểm. Vị tướng lãnh này là Trung Tướng Phạm Văn Di, Chính Ủy Quân
Đoàn 7 của quân đội này.
Những gì tôi kể ra trên đây chỉ là những gì dễ thấy và được
nhiều người thấy. Còn có nhiều hiện tượng khác tiềm ẩn hơn, thâm độc hơn do
người Tàu cố ý gây ra như nạn hàng hóa rẻ tiền, thiếu phẩm chất của họ tràn
ngập Việt Nam trong đó có những hàng độc hại, những thực phẩm có chứa các hóa
chất gây bệnh chết người hay làm hại cho sức khoẻ cho loài người nói chung mà
ảnh hưởng sẽ kéo dài trong nhiều thế hệ. Việc người Tàu xây hàng loạt nhiều đập
trên thượng nguồn sông Cửu Long và sông Hồng Hà đe dọa sự an toàn và phong phú
của các đồng bằng châu thổ của các sông này, từ đó đe dọa cuộc sống của nhiều
chục triệu người dân ở đây cũng là những hiện tượng người ta cần chú ý. Chưa
hết, chuyện Trung Cộng tung tiền ra và đứng sau hai nước ở phía tây Việt Nam là
Căm Bốt và Lào cũng đã và chắc chắn sẽ còn gây ra rất nhiều khó khăn cho Việt
Nam mà những gì Căm Bốt đã làm trong Hội Nghị Thượng Đỉnh ASEAN vừa qua là một
bằng cớ, y hệt những gì Cộng Sản Bắc Việt đã gây ra cho Việt Nam Cộng Hoà trong
cuộc chiến tranh vừa qua.
Trên đây mới chỉ là hiểm họa do người Tàu từ phương bắc đem
tới. Còn có những hiểm họa khác do chính những người lãnh đạo ở Việt Nam
hiện tại vì tham lam, vì trình độ hiểu biết kém cỏi, vì kiêu căng, vì mang bệnh
thành tích… đã và đang gây ra cho chính dân tộc mình. Tôi muốn nói tới việc xây
dựng bừa bãi và cẩu thả các đập thủy điện ở khắp nơi mà Sông Tranh 2 chỉ là một
trường hợp điển hình. Nguy hiểm hơn nữa là việc xây dựng các nhà máy phát điện
hạch tâm, khởi đầu là ở Phan Rang, bất chấp những kinh nghiệm khủng khiếp của
người Nga ở Chernobyl, người Nhật ở Fukushima hay những sự thận trọng của người
Pháp, người Đức, người Mỹ khi những người này quyết định cho đóng cửa hay ngưng
hoạt động các lò điện này ở nước họ. Nga, Nhật, Mỹ, Pháp, Đức… là những nước
giàu có, tiền bạc nhiều, lại có những nền khoa học và kỹ nghệ cao, những chuyên
viên giỏi, những người thợ có kinh nghiệm và vững tay nghề mà còn thận trọng
tối đa như vậy, còn Việt Nam mình thì mặc dầu còn kém cỏi về đủ mọi mặt nhưng
đã bất chấp tất cả. Người ta đã không đếm xỉa gì đến sự cảnh cáo của dư luận
quốc tế cũng như quốc nội, Giáo Sư Phạm Duy Hiển ở trong nước, Giáo Sư Nguyễn
Khắc Nhẫn ở bên Pháp, những chuyên viên thượng thặng của người Việt đã hết lời
can ngăn và đã viết nhiều bài điều trần với những lời lẽ vô cùng thống thiết
nhưng không ai để mắt, để tai tới…cho đến khi đại họa xảy ra thì mọi sự đã quá
muộn. Nên nhớ là với Fukushima, người Nhật chỉ riêng để làm sạch miền biển liên
hệ đã phải bỏ ra nhiều tiền bạc, công sức và dự trù sẽ phải để ra bốn mươi năm
mới thực hiện nổi. Tham nhũng và nhất là bệnh thành tích phải chăng là nguồn
gốc của đại nạn này? Việt Nam
phải là nhất, là cái gì cũng có, nhất là ở thời đại Hồ Chí Minh, Đỉnh Cao
Của Trí Tuệ Loài Người. Cuối cùng chỉ tội nghiệp cho người Chàm vì địa điểm
thiết lập những nhà máy này chỉ cách Tháp Chàm có năm cây số. Nếu chuyện gì xảy
ra, con số hơn một trăm ngàn người còn sót lại của một dân tộc đã một thời hùng
cứ ở miền trung và miền nam Trung Phần Việt Nam, có thời đã đánh bại người
Việt, tràn ngập kinh đô Thăng Long, với một nền văn hoá giàu về hình tượng, nơi
xuất thân của Nhạc Sĩ Từ Công Phụng, Ca Sĩ Chế Linh và nhiều người khác … sẽ
một lần nữa bị tiêu diệt và lần này chắc chắn là lần chót. Nên biết thêm là nhà
cầm quyền ở Việt Nam hiện dự trù sẽ thiết lập tổng cộng từ 8 đến 10 nhà máy
điện hạch tâm, phần lớn là ở miền Trung mà Phan Rang chỉ là khởi đầu với 2 nhà,
mỗi nhà 2 lò. Tất cả đều là mua của Nhật, Nga và luôn cả Đại Hàn sau các cuộc
thăm viếng của các nhà lãnh đạo Đảng và chính phủ. Họ viện cớ là các nhà sản
xuất đều nói là các lò họ làm là an toàn một trăm phần trăm nhưng ai mà tin được
những kẻ ở giữa ăn huê hồng từ những hợp đồng tính từ 3 tỷ, 5 tỷ, 10 tỷ Mỹ Kim
trở lên. Nểu chẳng may những vụ rì rỏ hay phát nổ của các lò xảy ra như ở
Chernobyl hay Fukushima xảy ra thì một phần ba dân số cả nước, phần ba dân số
bị coi là có quê hương “đất mặn đồng chua”, là “đất cày lên sỏi đá” , là “nghèo
lắm ai ơi” với “mùa đông thiếu áo, hè thời thiếu ăn”, nơi “Trời làm cơn lụt mỗi
năm, khiến đau thương lan tràn, ngập Thuận An…”, bây giờ lại bị đe dọa có thêm
một đại nạn mới do chính các nhà lãnh đạo của nước mình gây ra treo sẵn trên
đầu.
Trên đây chỉ là một số những gì đã và đang xảy ra trên đất
nước Việt Nam
của chúng ta mà mọi nguời ít nhiều còn quan tâm tới quê hương của mình, của ông
cha mình đều nhận thấy. Còn rất nhiều chuyện khác lớn hơn, quan trọng hơn và có
tính cách chiến lược hơn như sự lệ thuộc về chính trị, về kinh tế và luôn cả về
văn hóa của Việt Nam vào Trung Quốc, nhất là việc cấm đoán người dân không được
tỏ thái độ dù cho chỉ là để bày tỏ lòng yêu nước của mình, giam cầm, bắt bớ
hành hạ, không cho họ biết tới những gì đã thực sự xảy ra liên hệ tới sự thịnh
suy, tồn vong của quê hương và dân tộc họ. Đa số người dân đều mù tịt và vì mù
tịt nên đa số đều dửng dưng, nếu không nói là vô cảm. Nhiều người đã ví giai
đoạn mất nước và luôn cả diệt vong của dân tộc Việt Nam
như một người đang hấp hối với cái chết từ bàn chân đã lên tới đầu gối và đang
từ từ lên dần cho đến khi miếng bông đặt trên mũi đương sự không còn chuyển
động nữa.
Câu hỏi được đặt ra là những người đang lãnh đạo đất nước ta
hiện tại có biết rằng, như một truyền thống ngàn đời, Đảng Cộng Sản Trung Quốc
hay ít ra là những người lãnh đạo của đảng này ngay từ những ngày đầu đã nuôi
mộng làm chủ thiên hạ giống như Tần Thủy Hoàng ngày trước hay không? Hay là họ
vẫn tin tưởng vào “mười sáu chữ vàng” và “bốn tốt” mà Cộng Sản
Tàu đã tặng họ để tự lừa dối và lừa dối dân mình? Câu trả lời là có. Bằng cớ là
năm 1979, khi hai đảng cơm không lành, canh không ngọt, môi không theo răng bị
răng cắn bật máu, Cộng Sản Việt Nam không những chỉ tố cáo trước người dân ở
trong nước mà còn trước dư luận thế giới qua những tài liệu do chính họ xuất
bản từ Hà Nội, theo đó Mao Trạch Đông ngay từ giữa thập niên ba mươi của thế kỷ
trước đã nuôi mộng theo chân Tần Thủy Hoàng muốn làm bá chủ của cả thế giới,
bắt đầu là Đông Nam Á. Trong hai tài liệu nhan đề Sự Thật về Quan Hệ Việt
Nam-Trung Quốc Trong 30 Năm Qua bằng tiếng Việt do Nhà Xuất bản Sự Thật ấn
hành năm 1979 và tái bản năm 1980, và Chinese Aggression Against Vietnam,
Dossier do Vietnam Courrier chủ biên, xuất bản ỏ Hà Nội năm 1979, ngay từ
những trang đầu, người ta có thể đọc được những chi tiết như sau:
Ngay từ năm 1939, trong tài liệu nhan đề Cách Mạng Trung
Quốc và Đảng Cộng Sản Trung Quốc do chính ông viết, Mao Trạch Đông đã nhận
định: “Sau khi dùng chiến tranh đánh bại Trung Quốc, các nước đế quốc đã
cướp đi nhiều nước phụ thuộc và một bộ phận lãnh thổ của Trung Quốc: Nhật chiếm
Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần đảo Bành Hồ và Lữ Thuận, Anh chiếm Miến
Điện, Bu-tan, Nê-pan và Hương Cảng, Pháp chiếm An Nam…” Tiếp đến, một bản
đồ trong một sách giáo khoa đã vẽ nhiều lãnh thổ của các nước trong vùng biển
Đông Nam Á và Biển Hoa Đông là thuộc Trung Hoa. Sau đó, năm 1959, trong một
buổi họp của Ủy Ban Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc, khi nói về bang giao
quốc tế, Mao Trạch Đông phát biểu rõ hơn nữa về tham vọng thống trị toàn cầu
của mình. Lãnh tụ này nói: “Chúng ta phải chinh phục trái đất. Mục tiêu của
chúng ta là toàn thể trái đất” hay hạn hẹp hơn và kế hoạch hơn: “Chúng
ta phải giành cho được Đông Nam
châu Á bao gồm cả miền nam Việt Nam,
Thái lan, Miến Điện, Ma-lai-xi-a và Xin-ga-po. Một vùng như Đông-nam châu Á rất
giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản..xứng đáng với sụ tốn kém cần thiết để chiếm
lấy…Sau khi giành được Đông-nam châu Á, chúng ta có thể tăng cường được sức
mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối
Liên Xô-Đông Âu, gió đông sẽ thổi bạt gió tây.”
Về sự lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam ở biên giới Trung Việt,
qua tài liệu Chinese Aggression Against Vietnam , Cộng Sản Hà Nội tố cáo
Trung Quốc vi phạm các Công Ước 1887 và 1895 ký kết giữa Nhà Thanh và nước
Pháp, lấn chiếm 60 địa điểm trên lãnh thổ Việt Nam ngay từ trước năm 1949, sau
đó, từ sau năm 1949, bất chấp sự xác nhận lại các công ước này bởi Cộng Hòa
Nhân Dân Trung Quốc và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà vào năm 1957-1958, Cộng Sản
Bắc Kinh lại sáp nhập thêm trên 90 địa điểm khác ở biên giới giữa hai nước.
Chưa hết, cũng theo tài liệu này, từ sau năm 1974 con số các cuộc xâm nhập lại
tiếp tục gia tăng mạnh mẽ hơn với 179 vụ năm 1974, 294 vụ năm 1975, 812 vụ năm
1976, 873 vụ năm 1977 và 2.175 vụ năm 1978. Cuối cùng ngày 10 tháng 2 năm 1979,
hai tiểu đoàn chính quy Trung Cộng đã tiến sâu 2 cây số vào lãnh thổ Việt Nam,
chiếm đồn kiểm soát Thanh Loa, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. Vẫn chưa hết,
trong trận chiến biên giới Hoa Việt lần thứ hai 1984-1987, sau một trận đánh ác
liệt ở núi Lão Sơn, mà người Việt quen gọi là Núi Đất hay tọa điểm 1502, thuộc
xã Thanh Thủy, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang, quân Trung Cộng đã chiếm được núi
này, 3.700 lính phòng thủ Việt Nam đã hoàn toàn bị tiêu diệt, xác của họ đã bị
đơn vị chống hóa chất của bên địch thiêu hủy không còn vết tích. Lão Sơn không
phải là tọa điểm duy nhất bị quân Trung Cộng đoạt mà còn nhiều tọa điểm khác
như các tọa điểm 1030, 852, 211, 138, 156, 166, 167, 168… nằm sâu trong lãnh
thổ Việt Nam.
Sau trận này Việt Nam
đã mất thêm từ 600 đếm 1000 cây số vuông lãnh thổ về tay Trung Quốc. Có điều
lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam
đã giấu nhẹm không cho dân chúng biết gì về trận chiến bi thảm này cho mãi đến
khi Trung Cộng phổ biến phần nào trên các mạng của họ. Điều nên biết là trong
thời gian này Trung Cộng luôn luôn dùng thủ đoạn cho di dân của mình sang khai
thác đất đai hay cư ngụ trên lãnh thổ thuộc Việt Nam dọc biên giới, rồi sau đó
áp lực bắt Việt Nam phải công nhận những vùng đất này là thuộc nước họ. Sự kiện
này giải thích tại sao lại có chuyện điều đình và sửa lại các công ước mà trước
Nhà Thanh đã ký với Pháp mà nội dung đã được hai phía làm sáng tỏ không lâu,
trong các năm 1957, 1958 trước đó, như tôi đã nói ở trên qua các hiệp ước 1999,
2000. Chiến thuật này đang được họ dùng ở Biển Đông trên một quy mô rộng rãi
hơn, lớn hơn qua việc họ chiếm Hoàng Sa và một số đảo thuộc Quần Đảo Trường Sa
rồi tìm cách hợp thức hóa sau này. Việt Nam
giấu nhẹm nhưng Trung Cộng thì coi là quan trọng và quảng bá rộng rãi. Họ đã
cho công bố hình ảnh Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương tới thăm địa điểm Lão Sơn
này, kèm theo hình ảnh những công sự và đường sá mà họ thiết lập sau đó, nhắm
về phía Việt Nam.
Những sự kiện này khiến cho những ai quan tâm đến sự sống còn của đất nước
không khỏi không liên tưởng tới sự kiện Giang Trạch Dân đã bay thẳng từ Trung
Quốc đến bơi ở biển Mỹ Khê, Đà Nẵng như là biển nhà của mình thay vì phải qua
Hà Nội gặp chủ nhà trước hay Hồ Cẩm Đào đến bơi ở biển Hội An khi đến dự Hội
Nghị OPEC, hay chuyện Đảng Cộng Sản Việt Nam cho phép và bảo vệ các thanh niên
người Hoa rước đuốc thế vận qua Saigon và các đảo trong khi mọi cuộc tụ tập của
người Việt đều bị đàn áp, cấm đoán.
Trước tình trạng cực kỳ nguy hiểm kể trên, câu hỏi được đặt
ra là khả năng đề kháng của người Việt Nam như thế nào và những người có trách
nhiệm bảo vệ đất nước và sự tồn vong của dân tộc đã có thái độ ra sao và đã làm
gì? Để trả lời cho câu hỏi này, có lẽ chúng ta còn cần có nhiều buổi hội thảo
khác với những đóng góp của nhiều thuyết trình viên khác. Tạm thời tôi chỉ xin
mời quý vị đọc lại bản kiến nghị mà tôi đã đề cập đến trong phần đầu của bài
thuyết trình hay những bức thư mà Hòa Thượng Thích Quảng Độ hay những bài viết
của nhiều vị nhân sĩ, trí thức như Thiếu Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, cựu Đại Sứ
Việt Nam ở Trung Quốc và nhiều người khác ở trong nước viết trong ít năm gần
đây. Trước khi ngưng lời, tôi xin được trích dẫn lời của Thiếu Tướng Lê Duy
Mật, nguyên Phó Tư Lệnh kiêm Tham Mưu Trưởng Quân Khu 2, Chỉ Huy Trưởng Mặt
Trận Hà Giang trong thời gian chiến tranh biên giới, khi ông trả lời Biên Tập
Viên Mặc Lâm của Đài Á Châu Tự Do, RFA, ngày 17 tháng 2 năm 2013 về sự kiện là “nhiều
gia đình liệt sĩ của cuộc chìến 1979 đã không biết hài cốt con em mình nằm tại
đâu vì sau đợt cắm mốc biên giới thì phần đất Việt Nam chôn hài cốt liệt sĩ đã
thụt sâu về phía Trung Quốc. Thiếu Tướng có nghĩ rằng nhà nước phải làm một
điều gì đó để mang lại công bằng cho những người này hay không?”
Nguyên văn câu trả lời của Tướng Lê Duy Mật như sau:
“Nhà nước ta lệ thuộc không dám nói gì với Trung Quốc,
nếu không phải bàn với ngoại giao Trung Quốc, quân đội Trung Quốc, nhà nước
Trung Quốc thì mới có thể giải quyết được.”
Câu trả lời của Tướng Mật là về các liệt sĩ đã hy sinh trong
trận chiến Việt Trung 1979 và 1984-1987, nhưng nội dung của nó đã bao gồm toàn
bộ các vấn đề liên hệ đến bang giao Trung-Việt trong hiện tại. “Nhà nước ta lệ thuộc không dám nói gì với Trung Quốc” là
nguồn gốc của tất cả. Đó là lý do tôi lựa chọn đề tài cho buổi thuyết trình
ngày hôm nay, chưa kể tới tình trạng vô cảm của không ít người Việt trước hiện
tình vô cùng nguy hiểm của đất nước, sự mất tin tưởng của đa số người dân và sự
bất lực của giới trí thức và sự bất cập không đối phó được với tình thế mới
trong mọi sinh hoạt từ chính trị đến kinh tế, xã hội và luôn cả văn hóa ở Việt
Nam sau 38 năm Cộng Sản làm chủ toàn thể đất nước, và 27 năm đổi mới. Lãnh đạo
cấp cao của hai đảng Cộng Sản đã thỏa hiệp với nhau những gì trên đầu người dân
Việt Nam từ sau cuộc chiến biên giới Trung-Việt, từ sau Hội Nghị Thành Đô 1990,
từ sau những buổi gặp gỡ của Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh và sau này Nguyễn Phú
Trọng và Trương Tấn Sang với các nhà lãnh đạo Trung Quốc? Chỉ có những người
này mới biết được nhưng không bao giờ và sẽ chẳng bao giờ họ nói ra cả. Về điểm
này, tôi xin được nhắc lại lời Vua Lê Thánh Tông dụ bọn các ông Thái Bảo Kiến
Dương Bá Lê Cảnh Huy năm Hồng Đức thứ tư, 1473, nguyên văn như sau:
“Một thước núi, một tấc
sông của ta, lẽ nào lại nên vứt bỏ? Ngươi phải kiên quyết tranh biện, chớ cho
họ lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang phương Bắc trình bày rõ
điều ngay lẽ gian. Nếu ngươi dám đem một thước, một tấc đất của Thái Tổ làm mồi
cho giặc, thì tội phải tru di.”
Lịch sử đã được chép, đang đuợc chép và sẽ còn được chép dù
cho môn sử học, vì lý do nào đó, trái với truyền thống của dân tộc, trái ngay
cả với nhận định “dân ta phải biết sử ta” của Hồ Chí Minh và ngược lại với
chương trình giáo dục của bất cứ quốc gia độc lập và có chủ quyền nào, kể cả
các quốc gia tiền tiến về khoa học và kỹ thuật, không còn được coi là quan
trọng trong chương trình giáo dục của Việt Nam hiện tại. Đây cũng là một lý do
khác đã và đang làm cho chúng ta mất nước.
Xin cảm ơn Quý Vị đã kiên nhẫn lắng nghe hay đã đọc và đọc
lại bài thuyết trình này. Xin kính chào Quý Vị.
Phạm Cao Dương