Hòa Thượng Thích Quảng Đức, Biểu
Tượng Về Tinh Thần Dân Tộc Và Đạo Pháp và cũng là biểu tượng phá hoại
đoàn kết dân tộc Việt, mê tín nô lệ giặc Tàu
I. Định Nghĩa danh từ:
Ngày 11-06-1963, Hòa-thượng Thích
quảng đức tự-thiêu, cố Tổng-thống Ngô-đình-Diệm phát biểu về sự việc
này như sau trong buổi chiều cùng ngày: “sự hòa giải đang tiến
hành tốt đẹp thì sớm nay do sự tuyên truyền quá khích che dấu sự thật
gây sự hoài nghi về thiện chí của chính phủ khiến một số người bị đầu
độc gây một án-mạng oan uổng làm tôi rất đau lòng”(nguyên văn) -ngưng trích-.
Do đó, kể từ văn bản này, chúng tôi gọi sự tự-thiêu của Hòa-thượng Quảng-Đức là án-mạng thay vì tự-thiêu như trước đây.
Ngoài ra còn nêu thêm về
Chính-danh, Chính-nghĩa, của án-mạng này, mà từ 54 năm nay các
Giáo-hội Phật-giáo Việt-Nam cũng như Thống-Nhất, Hải-Ngoại và đảng
Cộng-sản Việt-Nam gọi là vị pháp thiêu-thân.
Án-mạng: Vụ án có người chết. (Việt-Nam Tự-Điển do Lê-văn-Đức cùng một nhóm thân hữu soạn, Lê-ngọc-Trụ hiệu đính trang 23).
Chính-Danh: Tiếng dùng đúng
nghĩa, đúng chỗ, đúng người, một học-thuyết của Khổng-tử...: vua phải
vua, tôi phải tôi, cha phải đạo cha, con phải đạo con. (Việt-Nam
Tự-Điển do Lê-văn-Đức cùng một nhóm thân hữu soạn, Lê-ngọc-Trụ hiệu
đính trang 294).
Chính-Nghĩa: Nghĩa-vụ chính-đáng,
việc làm đúng với lẽ phải : Phải biết đâu là chính-nghĩa, đâu là
ngụy-quyền. (Việt-Nam Tự-Điển do Lê-văn-Đức cùng một nhóm thân hữu
soạn, Lê-ngọc-Trụ hiệu đính trang 295).
II/ Các vận động của Phật giáo miền Trung dưới chính thể Đệ Nhất Việt-Nam Cộng-Hòa từ đầu tháng 05-1963 đến ngày 11-06-1963:
Phật giáo Việt-Nam từ năm 1945
đến 1963 được chia thành ba bộ phận khác nhau và cũng là ba hình thức
sinh hoạt khác nhau. Đó là Phật giáo của những đồng bào miền Bắc di cư
(Thượng tọa Thích Trí-Dũng, Thượng-tọa Thích Tâm Châu); Phật giáo
miền Trung (Thượng tọa Thiện-Minh, Trí-Quang); Phật giáo miền Nam (gồm
Hội Phật Học Nam Việt, Giáo Hội Tăng Già, Phật Giáo Nguyên Thủy và
một số các hội đoàn khác…).
Tổng Hội Phật Giáo Việt-Nam (viết
tắt là THPGVN) được thành lập vào năm 1951 sau đại hội từ ngày 6 đến 9
tháng 5 (nhằm mùng 1 đến 4 Âm lịch). Đại hội đã suy tôn Hòa thượng
Thích Tịnh-Khiết làm Hội Chủ. Mặc dù ba tổ chức Phật giáo nói trên đều
nằm trong Tổng Hội Phật Giáo, nhưng vẫn còn sinh hoạt riêng rẻ, chưa
có tổ chức một cách chặt chẻ. Lực lượng nòng cốt của THPGVN là Phật
giáo miền Trung, là một tổ chức tương đối có quy cũ.
Khi chí sĩ Ngô-đình-Diệm về nước
chấp chánh ở vai trò Thủ tướng rồi Tổng Thống vào năm 1955, năm thành
lập nền Đệ Nhất Việt-Nam Cộng-Hòa. Vị Tổng thống dân cử đầu tiên của
nền Cộng-Hòa son trẻ đã có một chính sách ưu đãi đặc biệt đối với Phật
Giáo Việt-Nam cho dù bản thân là một tín hữu Công giáo thuần thành.
Sau đây là một số bằng chứng cụ thể (xây dựng, trùng tu một số ngôi chùa lớn ở Sài Gòn):


Chùa Nam Thiên Nhất Trụ
Khoảng từ năm 1955 đến khi cuộc
biểu tình ở đài phát thanh Huế nổ ra (08-05-1963), Phật giáo miền
Trung của Thượng tọa Thiện-Minh và Trí-Quang đã có mối giao-hảo rất
tốt với ông Ngô-đình-Cẩn.
Ông Ngô-đình-Cẩn đối xử với Phật
giáo miền Trung của thầy Thiện-Minh và thầy Trí-Quang như một bát nước
đầy. Lúc nào cũng yểm trợ lương thực, cũng như các mặt khác cho chùa
Từ-đàm (thí dụ như việc xuất ngoại tham dự các hội nghị quốc tế, luôn
ưu tiên cho các thầy miền Trung, trong đó có Trí-Quang), nơi trung tâm
điều hành của Phật-giáo miền trung. Trong tất cả các thầy của chùa
Từ-Đàm, Trí-Quang là người hưởng ân-đức nhiều nhất từ ông
Ngô-đình-Cẩn.
Nhân ngày Lễ Phục-sinh đầu tháng
04-1963, Tổng-thống Ngô-đình-Diệm thị sát dân tình, ông nhận thấy việc
treo cờ của Công giáo không phù hợp với thông-tư của trung ương.
Sau chuyến kinh lý, Tổng thống
ban hành một thông tư khác nhắc lại việc thể thức treo quốc kỳ cũng
như cờ đạo, không phân biệt tôn giáo.
Đầu tháng 5-1963, nhân ngày lễ
ngân khánh kỷ niệm 25 năm thụ phong linh mục của Tổng giám mục
Ngô-đình-Thục tại Huế, nhiều cờ Công giáo đã được treo, nhưng lại đi
trái với thông tư quy định treo cờ của tổng thống; và tháng 05 cũng là
lễ Phật đản, Phật tử treo cờ nhưng lại không đúng với thông tư của
tổng thống tương tự như vụ treo cờ của Công giáo.
Trong thông tư có đề cập đến việc
cờ tôn giáo không được treo cao hơn cờ quốc gia. Tổng-thống
Ngô-đình-Diệm là người rất tôn trọng thể diện quốc gia, nên cờ của bất
cứ tôn giáo nào, không được phép treo cao hơn lá quốc kỳ. Cũng như
những lúc đi kinh lý, nơi nào quốc kỳ cũ, rách, tổng thống đều bắt
phải treo quốc kỳ mới.
Bức công điện mang số 9195 đề
ngày 06-05-1963 nhắc việc lại treo cờ Phật giáo trong ngày Phật đản ở
Huế đã đến không đúng lúc. Công điện này đến chiều ngày 06-05 mới về
Tòa đại biểu và tỉnh đường Thừa-Thiên. Tuy nhiên, Văn phòng Cố Vấn Chỉ
Đạo của ông Ngô-đình-Cẩn mãi đến ngày hôm sau, 07-05 mới hay biết.
Nhưng chùa Từ-đàm đã có trong tay văn bản này từ trước.
Nguyên nhân sự hay biết chậm trễ
của ông Cẩn là vì ông không còn được sự tín nhiệm của Tổng thống kể từ
khi Đức giám mục Ngô-đình-Thục về Huế.
Trong phiên họp khẩn tại Văn
phòng Cố vấn Chỉ đạo, ông Ngô-đình-Cẩn đã quyết định cùng các ông
Nguyễn-văn-Đẳng, tỉnh trưởng Thừa-Thiên, đại úy Minh v.v…sẽ hoãn không
thi hành lịnh đó, nghĩa là cứ để cho đồng bào treo cờ Phật giáo như
thường lệ.
Xe thông tin của tỉnh đã đi thông
báo quyết định tạm thời vẫn treo cờ Phật giáo như cũ. Tuy nhiên, do
công-điện 9195, đến chùa Từ-đàm trước, sau đó mới đến văn phòng của
ông Ngô-đình-Cẩn khiến cho dư luận tại Huế vô cùng xôn xao, cho dù có
xe thông tin của tỉnh trấn an, nhưng không khí lúc đó rất ngột ngạt
như sẳn sàng có sự phản kháng nào đó…
Lúc 6 giờ chiều, khoảng một ngàn
Phật tử cũng như các thầy của chùa Từ-đàm đã tụ tập trước tỉnh đường
để biểu tình phản đối công điện quy định việc treo cờ Phật giáo. Hiện
diễn tại chỗ, phía chính quyền, gồm có các ông Nguyễn-văn-Đẳng, tỉnh
trưởng Thừa-thiên Huế; ông Phó tỉnh trưởng Hành chánh; ông Phong
Trưởng ty Cảnh sát thành phố Huế. Trong không khí đó, các Thượng tọa
Thiện-Minh, Trí-Thủ, và Trí-Quang cùng xuất hiện. Trong ba vị,
Trí-Quang là nóng nảy nhất và phản đối chánh quyền và cảnh sát vào
sáng ngày 07-05 lại hạ cờ PG, có nơi còn xé cờ. Ông Đẳng, Tỉnh trưởng
và ông Phong Trưởng ty Cảnh sát khẳng định là không có chuyện này.
Chính quyền địa phương đã thông báo hoãn việc thi hành lịnh của trung
ương.
Ông Phong, Trưởng ty cảnh sát hỏi
lại xin thầy cho biết chính xác nơi nào, khuôn hội nào đã gặp trường
hợp này? Thầy Trí-Quang đã không đưa ra bất cứ bằng chứng nào.
Kết cuộc, mọi việc được giải
quyết ổn thỏa, với sự thỏa thuận giữa chính quyền và các thượng tọa.
Sau đó, vị tỉnh trưởng Thừa-Thiên cho ba xe phát thanh đi vòng trong
thành phố thông báo việc treo cờ PG như bình thường không có gì thay
đổi. Trên các xe, có Phật tử do các Thượng tọa cử cùng đi làm công tác
thông tin.
Sáng ngày 08-05-1963, Phật tử các
nơi nô nức kéo về chùa Từ-Đàm để làm lễ Phật Đản. tuy nhiên số người
tham gia tăng lên một cách khác thường. Nhiều người được rỉ tai là
sáng nay chính quyền có thể đàn áp Phật tử và không cho rước kiệu.
Đến dự lễ tại chùa Từ-Đàm, có sự
hiện diện của Thiếu-tướng Lê-văn-Nghiêm, đại biểu Hồ-đắc-Khương, Tỉnh
trưởng Nguyễn-văn-Đẳng, tất cả đều khăn áo chỉnh tề đến với tư cách
chính quyền và Phật tử.
Trong buổi lễ, thầy Trí-Quang đã
đăng đàn và thuyết giảng một bài pháp chống đối chính quyền một cách
nặng nề chưa từng có. Nội dung công kích chính quyền đồng thời có tính
cách kêu gọi Phật Giáo tranh đấu cho Phật Pháp và “đòi quyền bình
đẳng tôn giáo” Đồng thời khắp nơi đều có những biểu ngữ đòi chính
quyền thực thi quyền bình đẳng tôn giáo và lên án kỳ thị tôn giáo. Các
viên chức chánh quyền Việt-Nam Cộng-Hòa hiện diện tại chỗ đã rất
nhẫn-nhục ngồi tham dự cho đến hết buổi lễ. Sự việc trên được báo lại
cho ông Ngô-đình-Cẩn, ông Cẩn giơ tay than :" Tại sao Thầy Trí Quang
lại cư xử với mình như vậy?”
Buổi tối cùng ngày, khoảng 19 giờ
30, cuộc tập hợp của Tăng tín đồ tại chùa Từ-Đàm để đốt pháo bông, và
được ban tổ chức thông báo hủy bỏ. Đồng thời mọi người được mời tập
trung đến đài Phát thanh phía cầu Tràng-Tiền. Như thường lệ, ông quản
đốc Ngô-Ganh sửa soạn để phát thanh chương trình Phật đản được thâu
sẳn. Phía chùa Từ-Đàm và phật tử áp lực ông Quản đốc phải cho truyền
thanh trực tiếp buổi lễ ban sáng kể cả bài thuyết pháp chống chính
quyền của thầy Trí-Quang, nhưng áp lực này đã bị ông Quản đốc cương
quyết từ chối. Vì trước khi phát thanh phải có sự kiểm duyệt cũng như
xin phép.
Tình hình ngày càng căng thẳng!
Người dân tụ tập bắt đầu ném gạch đá vào đài ... Ông Quản Đốc
Nguyễn-Ganh kêu cứu Thiếu tá Đặng-Sỹ từng 5 phút một.
Có một nhà sư trẻ leo lên nóc đài
phát thanh phất cờ Phật giáo và kêu gọi đồng bào tiến lên. Các Thượng
tọa Thiện-Minh, Trí-Quang có lên tiếng kêu gọi mọi người giữ bình
tĩnh, nhưng mọi việc đã quá trễ...
Trong lúc chiếc xe đến giải tán
biểu tình của Thiếu-tá Đặng-Sỹ tiến gần (tốc độ tương đương với rùa
bò, vì người hiện diện quá đông) đến cửa đài phát thanh khoảng 50
thước, đột nhiên có tiếng nổ lớn, ngay trước cửa đài, sau đó lại có
một tiếng khác bồi thêm...
Hỗn loạn, kinh hoàng bao trùm đài phát thanh Huế….
Một số sĩ quan đứng gần đài cho
biết, tiếng nổ làm rung chuyển tất cả, đồng thời ánh sáng phát ra từ
chất nổ là loại họ chưa bao giờ nghe thấy trong đời nhà binh của mình.
Trong lúc hỗn loạn, có những
tiếng nói vói, hoặc la lối ““Bà con chạy lối ni… đồng bào đừng về lối
nớ… Đặng Sỹ nó đang cho xe cán đồng bào ở đằng nớ…”…
Một cảnh tượng thê lương bày ra trước cửa đài, hầu hết nạn nhân chết không toàn thây.
Họ chết không vì mảnh đạn, như do bởi sức ép. Sức ép này tương đương với 5 ký lô TNT.
Danh sách người chết gồm: 1/ Phật
tử Đặng Văn Công 13 tuổi; 2/ Phật tử Trần Thị Phước Tự, 17 tuổi; 3/
Phật tử Nguyễn Thị Yến 20 tuổi; 4/ Phật tử Huỳnh Thị Tôn Nữ Tuyết Hoa
12 tuổi; 5/ Phật tử Lê Thị Kim Khanh 17 tuổi; 6/ Phật tử Nguyễn Văn
Đạt 13 tuổi; 7/ Phật tử Nguyễn Thị Ngọc Lan 12 tuổi; 8/ Phật tử Nguyễn
Thị phúc 15 tuổi.
Trong số nạn nhân có một nữ tín
hữu Công giáo. Do đó nạn nhân vụ thảm sát ở đài phát thanh Huế là 7
người Phật tử và 1 nữ tín hữu Công giáo.
Ngay sau vụ nổ trước cửa đài,
Thượng-tọa Thiện-Minh đã đứng ra chịu trách nhiệm trước mặt chính
quyền gồm các ông Nguyễn-văn-Đẳng, tỉnh trưởng Thừa-Thiên, Thiếu-tá
Đặng-Sỹ, Trung tá Thưởng Giám Đốc Nha Công An Tư Pháp.
Qua ngày hôm sau, phía chính
quyền cũng bên chùa Từ-đàm của thượng-tọa Thiện-Minh, Trí-Quang đều
không có hành động cụ thể. Chính quyền địa phương chờ đợi sự giải
quyết của trung ương. Mà trung ương mãi đến ngày 10-05 mới phái bộ
trưởng nội vụ ông Bùi-văn-Lương ra điều tra. Nhưng tất cả chỉ diễn ra
như một thủ tục hành chánh thông thường.
Khoảng năm 1966, Đại Út Scott (Cố
Vấn của Tiểu Đoàn 1/3 SĐIBB từ năm 1965) cho Đại úy Bửu (em họ vợ của
Thiếu tá Đặng-Sỹ) biết chính ông ta là tác giả vụ nổ ở đài phát thanh
Huế vào đêm 08-05-1963 lúc 22giờ30.
Trở lại tình hình Huế sau đêm
kinh hoàng ở đài phát thanh Huế, sau mấy ngày lo sợ bị chính quyền đàn
áp, Trí-Quang lấy lại được bình tĩnh khi không thấy động tĩnh gì,
đồng thời dấn tới đưa ra một số đòi hỏi, như đòi xác các nạn nhân về
an tảng (chính quyền không chấp nhận); đưa ra tuyên ngôn 5 điểm trở
thành nền tàng cho Phật giáo tranh đấu năm 1963.
1. Yêu cầu chính phủ Việt Nam Cộng Hòa thu hồi vĩnh viễn công điện cấm treo cờ tôn giáo nơi công cộng.
2. Yêu cầu Phật giáo phải được hưởng một chế độ đặc biệt như các
hội truyền giáo Thiên Chúa Giáo đã được ghi trong Đạo dụ số 10.
3. Yêu cầu chính phủ chấm dứt tình trạng bắt bớ và khủng bố tín đồ Phật giáo.
4. Yêu cầu cho tăng ni phật tử được tự do truyền đạo và hành đạo.
5. Yêu cầu chính phủ bồi thường thích đáng cho những người chết oan vô tội và kẻ chủ mưu giết hại phải bị xét xử
Bản Tuyên ngôn có chữ ký của
Hòa-thượng Thích Tịnh-Khiết. Tuy nhiên, trong bản Phúc Trình của Liên
Hiệp Quốc về tình hình Phật giáo năm 1963, viết rằng, HT Tịnh-Khiết
không hề muốn ký văn bản này. Ngài đã bị ép buộc.
Ngày 09-05-1963, Ủy Ban Liên Phái
Bảo Vệ Phật Giáo được thành lập và do Hòa-thượng Thích Tâm-Châu làm
chủ-tịch, văn phòng đặt tại chùa Xá-Lợi thay vì Ấn-Quang.
5 điểm yêu sách của Phật giáo do
Thích trí quang khích động cùng với tờ trình của bộ trưởng nội vụ,
khiến Tổng thống Diệm cho là quá đáng khó chấp nhận.
Trong thời gian này ở Huế, các vị
Thượng-tọa ở chùa Từ-đàm đã tiếp xúc một cách hòa hoãn với với chính
quyền, đồng thời họ cũng hạ tuyên ngôn từ 5 điểm xuống còn 3 điểm. Nội
bộ chùa chia ra hai khuynh hướng rõ rệt, một bên muốn nhượng bộ, một
bên cứng rắn muốn làm tới.
Chính quyền trung ương không muốn giải quyết rốt ráo vấn đề, và nghĩ đây là chuyện địa phương giải quyết cũng ổn thỏa.
Đến ngày 20-05, gần nữa tháng
trôi qua, không có gì cụ thể được giải quyết. Lúc này, các bộ phận nằm
vùng của Việt cộng, chưa có ảnh hưởng công khai, nhưng ngầm ngầm
trong các phong trào của Phật giáo. Tuy nhiên, họ đã lợi dụng khoảng
trống vừa nêu để tìm cách xâm nhập sâu hơn vào phong trảo đang sôi sục
khắp nơi.
Dư luận quốc tế, trong đó có các
tờ báo Mỹ như New York Times, Washington Post, New York Herald
Tribunne cũng như chính giới Mỹ lên tiếng công kích Tổng Thống
Ngô-đình-Diệm đàn áp Phật giáo.
Tại Huế, chùa Từ-đàm bị cô lập,
vài ngày sau điện nước cũng bị cúp. Đây là quyết định địa phương do
tình hình khẩn cấp ngay tại chỗ.
Chủ trương của Tổng thống
Ngô-đình-Diệm là giải quyết đối thoại giải quyết ôn hòa và thương
thuyết với các thầy ở chùa Từ-Đàm, trong đó có Thượng-tọa Thiện-Minh.
Việc này ông Ngô-đình-Nhu không đồng ý, vì cho rằng các thầy không
phải là người tu hành thuần túy. Nhưng tổng thống vẫn một mực giữ ý
kiến riêng của mình trong việc điều đình với Từ-Đàm.
Một trong những nỗ lực hòa giải
là cử Trung tá bác sĩ Trương-khuê-Quan làm trung gian hòa giải, vì ông
là người từng làm Phật sự với các thầy từ năm 1946 cho tới khi nhập
ngủ năm 1956. Tổng thống yêu cầu chuyển đạt yêu cầu là các thầy đừng
tuyệt thực, dân chúng ngưng biểu tình một cách quá đáng, mọi việc sẽ
được giải quyết đâu vào đó.
Tưỏng cũng nên nói rằng, trong
suốt thời gian xảy ra tranh chấp hay tranh đấu cùa Phật giáo, các viên
chức thuộc tòa lãnh sự Hoa-Kỳ đã có sự liên lạc mật thiết với các
Thượng-tọa chùa Từ-Đàm.
Như trên đã nêu, mọi việc hòa
giải đang được tiến hành âm thần nhưng tốt đẹp thì ngày 11-06-1963,
Hòa thượng Thích-quảng-Đức tự-thiêu.
Sau cuộc tự-thiêu này, Tổng-thống
Ngô-đình-Diệm phát biểu như sau trong buổi chiều cùng ngày: “sự hòa
giải đang tiến hành tốt đẹp thì sớm nay do sự tuyên truyền quá khích
che dấu sự thật gây sự hoài nghi về thiện chí của chính phủ khiến một
số người bị đầu độc gây một án-mạng oan uổng làm tôi rất đau lòng”
(nguyên văn).
Cũng cần phải nhắc lại xuất xứ
của hai Thượng-tọa thiện-Minh và Trí-Quang đều do bác sĩ Tâm-Minh
Lê-đình-Thám đào tạo. Bác sĩ Tâm-Minh Lê-đình-Thám là một cư sĩ
uyên-thâm Phật học. Tuy nhiên, ông đã rời bỏ Phật giáo và gia nhập
đảng Lao-động Việt-Nam.
III/ Nhận định sự việc:
1/ Thông tư, nghị định quy định
về việc treo cờ tôn giáo phù hợp với thể diện quốc gia của Tổng-thống
Ngô-đình-Diệm là điều hợp lý và đương nhiên.
2/ Văn bản gởi đến Huế ngày
06-05-1963 lại trùng vào dịp lễ Phật đản. Tuy nhiên, chính quyền địa
phương qua ông Ngô-đình-Cẩn đã rất linh động và có thiện chí trong
việc hoãn thi hành lịnh từ trung ương.
3/ Việc đình hoãn này đã được các bên đồng ý vào ngày 07-05-1963 ở tỉnh đường Thừa-Thiên Huế.
Phía chánh quyền gồm các ông:
Nguyễn-văn-Đẳng, tỉnh trưởng Thừa-thiên Huế; ông Phó tỉnh trưởng Hành
chánh; ông Phong Trưởng ty Cảnh sát thành phố Huế.
Phía chùa Từ-Đàm: Có các Thượng tọa Thiện-Minh, Trí-Thủ, và Trí-Quang.
4/ Trong lễ Phật đản tổ chức sáng
ngày 08-05-1963, Trí-Quang đã đã phản bội sự thỏa thuận giữa hai bên
chính quyền và chùa Từ-Đàm ngày 07-05 và lên tiếng công kích gay gắt
chính quyền. Nên nhớ trong buổi lễ có sự hiện diện của những viên chức
cao cấp về hai mặt hành chánh và quân sự Việt-Nam Cộng-Hòa.
5/ Thích trí quang lại còn cố
tình hạ nhục viên chức chính phủ, trong khi hai vị đại diện đến tham
dự lễ Phật đản trong sự chân thành; Sự cố tình này đi đến việc thổi
phồng những điều không thật, thành ra biến cố gọi là "đàn áp Phật giáo cũng như đòi bình đẳng tôn giáo";
6/ Nhân vật Trí quang tuy mặc áo
Phật, nhưng không làm việc cho Phật. Một chi tiết khác liên quan đến
Thượng tọa Thích trí quang, nhân vật này là gián điệp nhị trùng của
Cộng sản Hà Nội và cơ quan CIA (theo lời thuật của cựu thiếu tá Liên
Thành trong Thư LIÊN THÀNH gởi 2 Trung tướng cộng sản Việt Nam Phạm
Ngọc Hùng và Nguyễn Chí Vịnh)
7/ Trong dự kiến, chùa Từ-Đàm sẽ
tổ chức lễ đốt pháo bông vào buổi tố ngày 08-05. Tuy nhiên, chương
trình này đã bị hủy bỏ và dời đến trước đài phát thanh Huế. Một ngày
trước khi xảy ra thảm kịch, Đại úy Scott đã từ Đà-Nẵng ra Huế. Tại
Huế, ông ta bí mật đặt chất nổ trước đài khiến 8 người tham dự biểu
tình phải bị chết thảm.
8/ Việc chùa Từ-Đàm thay đổi địa
điểm tổ chức đốt pháo bông từ chùa đến đài phát thanh Huế; cũng như
việc đại úy Scott âm thầm ra Huế để đặt chất nỗ nơi đài phát thanh,
chứng tỏ, đây không phải là sự tình cờ.
8/ Sau vụ nỗ, nguyên nhân gây ra
là từ phía chùa Từ-Đàm do Trí-Quang cầm đầu, nhưng phía chính quyền
Việt-Nam Cộng-Hòa luôn giữ sự tích cực và thân thiện để giải quyết
những mâu thuẫn và tai nạn vừa xảy ra.
9/ Thủ phạm đặt chất nổ, làm chết
8 người ở đài Phát thanh Huế tối 08-05-1963 lúc 22giờ30 là đại úy
Scott; tòng phạm là Trí-Quang người đã lèo lái, khích động, tổ chức
cuộc biểu tình nhằm chiếm đài phát thanh cũng như làm bùng nổ những
mâu thuẫn tình cờ mang tính chất địa phương thành cái gọi là "Pháp Nạn
Phật giáo 1963".
10/ Từ những mâu thuẫn nhỏ mang
tính cách cục bộ địa phương, Trí quang đã cố tình khai thác thành
những mối bất đồng lớn đến cấp vùng, cấp quốc gia và quốc tế.
11/ Chính quyền đệ nhất Việt-Nam
Cộng-Hòa từ trung ương đến địa phương đã cố gắng hết khả năng để giải
quyết ổn thỏa những việc liên quan đến Phật giáo giai đoạn từ đầu
tháng 05-1963 đến ngày 11-06-1963, ngày xảy ra án-mạng giết chết Hòa
thượng Quảng đức. Tuy rằng, cách giải quyết còn nặng nề, chưa linh
động mang tính cách hành chính (đối phương gồm, Cộng Sản Việt-Nam, Bắc
Kinh và Hoa Kỳ đã tận tình khai thác những khuyết điểm này để làm lợi
cho họ), nhưng không thể nào kết luận cũng như kết án, Việt-Nam
Cộng-Hòa đàn áp, kỳ thị tôn giáo.
12/ Sau vụ Đại Úy Scott đặt chất
nổ trước đài Phát thanh Huế, Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Đạo Pháp (phía
các giáo hội Phật giáo), Ủy Ban Liên Bộ (chính quyền Việt-Nam
Cộng-Hòa) được thành lập để giải quyết những mâu thuẫn, tranh chấp
cũng như các cuộc biểu tình, tuyệt thực của Phật giáo đang lan rộng và
có khuynh hướng đi ngoài sự kiểm soát cả hai bên.
13/ Cuộc đàm phán, thương thuyết
giữa chính quyền và các vị lãnh đạo cao cấp của Phật giáo đang được
tiến hành một cách tốt đẹp, nhưng lại không làm hài lòng ba phe nhóm,
đó là cộng-sản Việt-Nam, Bắc Kinh (Trí quang là đại diện), Hoa-Kỳ, nên
bằng mọi giá ba phe nhóm này phải phá hoại cho bằng được.
14/ Cách phá hoại duy nhất, là
tìm ngòi nổ gây chấn động dư luận. Và hữu hiệu nhất là việc thuyết
phục cũng như cưỡng ép Hòa thượng Thích quảng-Đức phải tự-thiêu.
15/ Liên tiếp những sự kiện xảy
ra từ đầu tháng 5 kéo dài đến đầu tháng 6, trong đó có việc chùa
Từ-Đàm bị chính quyền địa phương bao vây, cắt điện nước, vì những hành
động biểu tình, tuyệt thực ra ngoài khung khổ của luật pháp quốc gia,
đã tạo cho quần chúng cũng như Phật tử nói chung những ngộ nhận cho
rằng chính quyền Việt-Nam Cộng-Hòa đàn áp Phật giáo.
16/ Do từ những ngộ nhận đó, HT
Quảng đức đã phát nguyện tự-thiêu để bảo vệ đạo pháp. Nhưng một thời
gian sau, trước khi cuộc tự-thiêu tiến hành, HT Quảng đức thay đổi ý
định không muốn tiếp tục việc này nữa.
17/ Lo sợ thất bại của các phong
trào Phật giáo do Cộng-sản Hà Nội, Bắc Kinh và Hoa Kỳ phát động nhằm
chống chính phủ Việt-Nam Cộng-Hòa, nên Trí quang đã ép HT quảng đức
phải tự-thiêu và Thích đức nghiệp là người tổ chức việc này.
18/ Cái chết của HT quảng đức
ngày 11-06-1963 là một án-mạng chứ không phải là tự-thiêu bảo vệ đạo
pháp như giáo hội phật giáo việt-nam thống nhất và cộng sản việt-nam
vẫn thường đưa ra từ 54 năm nay.
19/ Hung thủ cũng như kẻ có trách
nhiệm thực sự trong cái chết của Hòa thượng quảng đức, chính là Thích
trí quang và Đức nghiệp. Xa hơn là đảng Lao-động Việt-Nam, Bắc Kinh
và Hoa-Kỳ.
Nhà nghiên cứu Huỳnh Tâm cho biết trong suốt thời gian chiến tranh Việt-Nam Bắc Kinh chỉ thực hiện một tôn chỉ duy nhất: Bắc thạnh, Nam suy.
Tất cả sự kiện xảy ra từ năm 1945 cho đến 2017, đều cho thấy rất rõ
chủ trương triệt hạ Việt-Nam bằng mọi giá của nhà cầm quyền Bắc Kinh
(BK).
Điều đáng tiếc rất lớn, một số
lớn Tăng Ni cư sĩ lãnh đạo Phật giáo Việt Nam đã sai lầm thực hiện
theo chủ trương này của BK khi họ liên tục xuống đường chống chính phủ
VNCH trước 30-04-75 và im lặng trước tội ác của CSVN và Bắc Kinh kể
từ sau đó.
20/ Trước khi xảy ra vụ nỗ trước
đài phát thanh Huế tối ngày 08-05-63, giao tình giữa ông Ngô-đình-Cẩn
và Trí-Quang rất tốt. Tuy nhiên, vì tham vọng chính trị, cũng như nhu
cầu giết người bịt miệng, đã làm mờ lương tâm con người, mất Phật tâm
của một người được gọi là nhà sư. Sau khi chính phủ VNCH bị lật đổ,
Thích trí quang đã gây áp lực với chính phủ Nguyễn-Khánh đem ông Cẩn
ra xử bắn vào ngày 09-05-1964 tại khám Chí-Hòa.
Chuyện nhà giam 9 hầm của ông Ngô
Đình Cẩn lập ra để giam giữ người vô tội, do phía Phật giáo và cộng
sản đưa ra, tất cả đều là bịa đặt.
21/ Bản phúc trình, điều tra tại
chỗ của phái đoàn Liên-hiệp-quốc liên quan đến vấn đề Phật giáo vào
năm 1963, cho phép Hội Sử-Học Việt-Nam kết luận rằng, không hề có đàn
áp Phật giáo cũng như kỳ thị đối với tăng tín đồ.
22/ Hãy chấm dứt tình trạng viết
bài về tưởng-niệm HT Quảng đức tự-thiêu cũng như pháp nạn PG năm 1963
đây là những luận điệu mê-tín dị đoan do cộng sản Việt-Nam, cộng sản
Tàu rao truyền.
23/ Hội Sử-Học Việt-Nam gởi lời
kêu gọi đạo hữu Tâm-Diệu Nguyễn Xuân Quang điều hành trang
thuvienhoasen.org, trang sachhiem.net, cũng như những tác giả (nếu quý
vị là phật tử cũng như trí thức Phật giáo thực sự) đã thực hiện những
bài viết về chủ đề Tưởng-Niệm Bồ Tát Thích Quảng-Đức Tự-Thiêu hãy trở
về trung đạo đệ nhất nghĩa đế đừng viết loại bài hướng dẫn tăng ni
Phật tử đi dưới tấm biển chỉ đường của Cộng-sản Việt-Nam, mà hãy quay
đầu trở lại đi dưới hào quang của chư Phật.
24/ Cuối cùng cho thấy cái chết
của HT Quảng đức thật sự không có Chính-danh, Chính-nghĩa như đã được
loan truyền. Chính-danh, chính-nghĩa này là ngụy tạo từ Cộng-sản
Việt-Nam và Bắc Kinh, thiết tưởng không nên hối-tiếc và nhắc-nhở làm
gì.
25/ Hòa thượng Thích quảng đức bị
thêu chết trong tình trạng hôn mê, thì làm sao có được cái gọi là
trái tim bất tử? Trái tim bất tử hay xá lợi chỉ có được khi chết hay
viên tịch trong trạng thái tịch tĩnh giải thoát.
Hòa thượng Thích quảng đức vị
pháp thiêu thân và trái tim bồ tát bất tử là những gông cùm xiềng
xích, là ách nô lệ, là mê tín dị đoan tinh thần khiến người Phật tử
Việt-Nam không muốn đứng lên chống Việt cộng phản quốc và giặc Tàu xâm
lược.
IV. Con đường trước mặt của Phật tử Việt-Nam:
Nếu Hòa Thượng Thích quảng đức,
là Biểu Tượng Về Tinh Thần Dân Tộc Và Đạo Pháp thì ngày hôm nay đất
nước Việt-Nam phải là nước thật sự tiến bộ, văn minh, hãnh diện ngẩng
đầu sánh vai cùng các quốc gia trong vùng chung lo phát triển và người
dân có được cuộc sống sung túc hạnh phúc thật sự.
Nhưng thực tế của năm 2017, 54
năm sau cái chết của Ht Quảng Đức, đất nước Việt-Nam lâm vào tình
trạng điêu tàn khốn khổ chưa từng có. Từ thảm trạng bauxit Tây nguyên,
đến thảm họa Formosa Hà-Tĩnh kéo dài từ hơn 1 năm trời (tháng 04-2016
đến nay), dân Tàu cộng tràn ngập các tỉnh thành Việt-Nam, đến thảm
họa hạn hán nơi đồng bằng sông Cửu long và hàng trăm thảm họa khác đã
và đang chực đổ lên đầu dân Việt, nước Việt.
Trước tình trạng như vậy, còn
hãnh diện gì, vui thú gì khi biên soạn những bài viết đại loại như của
ông TS Trần Hồng Liên được phổ biến trên sachhiem.net.
Nếu ông Trần Hồng Liên còn có sự tự trọng tối thiểu của người cầm bút, hãy ngưng ngay những hành động
quảng bá cho sự mê tín dị đoan nô lệ giặc tàu đó.
Người Phật tử Việt-Nam hãy mạnh
dạn bước chân ra khỏi gông cùm nô lệ mê tín nêu trên. Trước là tự cứu
bản thân và gia đình. Sau là tiếp tay cùng dân tộc quét sạch giặc Tàu,
giải thể đảng cộng sản Việt-Nam và giải cứu nạn diệt chủng dân tộc
Việt.
V. Kết luận:
Một khi đất nước Việt-Nam thoát
khỏi sự đô hộ giặc Tàu và được tự do, dân chủ thực sự, việc đầu tiên
của người dân cũng như Phật tử Việt-Nam cần làm là phá hủy ngay lập
tức hai hình tượng mê tín nô lệ giặc Tàu. Đó là Hồ chí minh và Thích
quảng đức.
Hải ngoại ngày 11 tháng 07 năm 2017
Trúc-Lâm Nguyễn-việt phúc-Lộc, nguyên giáo sư cao-đẳng Phật học.
Bài viết liên quan:
- Thư LIÊN THÀNH gởi 2 Trung tướng cộng sản Việt Nam Phạm Ngọc Hùng và Nguyễn Chí Vịnh