
https://www.facebook.com/Quân-Sử
Việt-Nam
https://www.facebook.com/pages/Trúc-Lâm
Yên-Tử
Google+1 Quân Sử Việt Nam; Google+1 Trúc Lâm Yên Tử
Bản Lên Tiếng Thứ 20_Tôn Vinh Anh-hùng Ngô-đình-Diệm_Anh-hùng
Ngô-đình-Nhu Là Anh-Hùng Dân-Tộc Việt-Nam, Danh-Nhân Lịch-Sử Việt-Nam Cận Hiện-Đại

Di ảnh
anh-hùng dân-tộc Việt-Nam Ngô-đình-Diệm; Anh-hùng dân-tộc Việt-Nam Ngô-đình-Nhu
Định
nghĩa danh từ:
Anh-hùng:
Bậc tài giỏi xuất-chúng (Việt-Nam Tự-Điển quyển thượng trang 25 do tác giả
Lê-văn-Đức cùng nhóm văn hữu biên soạn, tác giả Lê-ngọc-Trụ hiệu đính);
Xuất-chúng: Cao vượt hơn quần chúng (Hán-Việt Từ-Điển do tác giả Đào-duy-Anh
biên soạn trang 583);
Dân-Tộc:
Dân một nước hay cùng chung một bộ lạc, cùng chung một tiếng nói hay chữ viết,
một phong tục, sống chung nhau dưới một tổ-chức cai-trị và ràng buộc nhau vì
quyền-lợi và phận-sự (VNTĐ quyển thượng trang 358, tác giả nt).
Danh-Nhân:
Người có danh-tiếng (VNTĐ quyển thượng trang 350, tác giả nt); Người có tiếng
ai cũng biết, homme célèbre (Hán-Việt Từ-Điển do tác giả Đào-duy-Anh biên soạn
trang 196).
***
Nhân
dịp tưởng-niệm lần thứ 50, cố Tổng-thống Ngô-đình-Diệm, cố vấn Ngô-đình-Nhu
tuẫn-quốc (02-11-1963_02-11-2013), Hội Sử-Học Việt-Nam tại Âu-Châu, chân thành
tôn vinh hai vị là Anh-Hùng Dân-Tộc Việt-Nam và Danh-Nhân Lịch-Sử Việt-Nam Cận
Hiện-Đại.
Sự tôn
xưng này dựa trên những sự nghiệp thần kỳ đối với dân-tộc Việt-Nam mà hai vị đã
dầy tâm sức xây dựng, củng cố và bảo vệ đến hơi thở cuối cùng.
Tiểu sử,
sự nghiệp thần kỳ của hai vị anh-hùng dân-tộc nêu trên được trang trọng ghi vào
Thần Việt Điện 2010_Tân U Linh Việt Điện (quyển sách ghi chép tiểu sử, công đức
thần kỳ của những anh-hùng dân-tộc Việt-Nam vào các thời trung, cận và
hiện-đại).
I/ Tóm
tắt tiểu sử anh-hùng Ngô-đình-Diệm:
- Ông
sinh ngày 27 tháng 07 năm 1897 nhằm ngày 28 tháng 6 năm Đinh Dậu (ở tài liệu khác
ghi ngày 03-01-1901 nhằm ngày 13 tháng Giêng năm Canh Tý) trong một gia đình có
chín người con. Thân sinh là cụ Ngô-đình-Khả, từng làm quan dưới thời vua
Thành-Thái.
- Thủa nhỏ theo học tại trường Pellerin Huế. Năm
1913, thi vào trường Quốc Học Huế, dạy theo chương trình tổng hợp bằng Việt và
Pháp Ngữ; Đến năm 1917, ông đỗ hạng nhì trong kỳ thi tốt nghiệp Trung Học.
Vì số tuổi còn quá trẻ mà lại đạt thành tích xuất sắc, nên thực dân Pháp đề
nghị cấp học bổng cho sang Pháp du học, nhưng ông đã từ chối.
- Năm 1918 được mời làm giáo sư Trường Quốc Tử Giám, một
trường dành riêng cho con cháu các quan trong triều đình.
- Đến năm 1919 được vào học trường Hậu Bổ, (như Học Viện
Quốc Gia Hành Chánh sau 1954). Trong suốt ba năm liền, luôn luôn là một
sinh viên xuất sắc trong các ngành hành chánh, chính trị, luật pháp. Và đã
tốt nghiệp thủ khoa.
- Sau
khi tốt nghiệp được triều Nguyễn thâu nhận, bổ làm Quan Hậu Bổ, Tri Huyện tỉnh Thừa Thiên, Tri Phủ tỉnh Quảng Trị, Quản
Đạo Ninh Thuận tỉnh Phan Rang và Tuần Vũ Bình Thuận tỉnh Phan Thiết.
- Nhờ thành tích phục vụ dân chúng xuất sắc, vua Bảo Đại bổ nhiệm ông ở chức vụ Thượng Thư Bộ Lại (tương đương với Bộ
Nội Vụ ngày nay). Ở trách nhiệm này, ông đề đạt những cải cách quan trọng cho
đất nước, tiếc rằng không được chấp nhận nên từ chức. Sự từ chức này gây chấn động
triều đình nhà Nguyễn và nhà cầm quyền Pháp lúc bấy giờ ở Đông Dương.
- Sau
khi từ chức, bản thân cư ngụ tại nhà thân phụ ở Huế. Tất cả lời mời cộng tác của
Nhật, Việt Minh và Bảo Đại đều bị ông từ chối. Ngay cả khi bị bắt đưa đến gặp
Hồ-chí-Minh cũng không làm ông thay đổi lập trường.
- Ông
Ngô-đình-Diệm được VM trả tự do bởi áp lực của Giám mục Lê-hữu-Từ cũng như bối
cảnh chính trị phức tạp và áp lực quốc tế. Sự trả tự do cho ông Ngô-đình-Diệm,
thực tế VM muốn thu phục nhân tâm của các thành viên cựu trào.
- Sau đó
ít lâu, ngày 05-06-1948
Pháp thương nghị chính thức trao trả độc lập cho Việt Nam với Hoàng Đế Bảo Đại qua việc ký kết Hiệp Ước Vịnh Hạ Long.
- Năm
1950 sống lưu vong ở Hoa Kỳ, tại đây ông được chính phủ Hoa Kỳ ủng hộ để cầm
quyền trong trường hợp người Mỹ thay thế người Pháp can thiệp vào Đông Dương
khi tình hình tại chỗ có nhiều thay đổi quan trọng, nhất là Trung cộng vừa chiếm
Hoa lục năm 1949.
- Ngày 07-07-1954 về nước Việt-Nam chấp chánh ở vai trò Thủ tướng do Quốc
trưởng Bảo Đại đề cử.
- Ngày
20-07-1954 hiệp định chia đôi nước Việt-Nam diễn ra ở Genève, Thụy-Sĩ. Ngoại
trưởng Trần-văn-Đỗ, trưởng phái đoàn Việt-Nam Cộng-Hòa kịch liệt phản đối. Thủ
tướng Ngô-đình-Diệm ra lịnh treo cờ rủ trên toàn miền Nam để phản đối hiệp định này.
- Hai lần tổ chức trưng cầu dân ý (bán chính thức và chính thức) để truất phế vua Bảo Đại (29-04 và 26-10-1955). Trong thời điểm này, ông Diệm chưa sẳn sàng để làm
Tổng thống cũng như truất phế vua Bảo-Đại (lý do thủ-tướng Diệm là người theo nho học vẫn còn
mang nặng tư tưởng trung quân nhưng không trung quân một cách mù quáng)
- Ngày 26-10-1956 lễ
ban hành Hiến Pháp của nền Đệ Nhất Việt-Nam Cộng-Hòa. Và cũng chính ngày này
ông Ngô-đình-Diệm chính thức trở thành vị Tổng thống đầu tiên của nền Cộng-Hòa
Việt-Nam.
- Sau
chín năm cầm quyền và chế độ Đệ I Việt-Nam Cộng-Hòa đang trên đà chiến thắng
Việt cộng, vì cương quyết bảo vệ quyền lợi tối thượng của dân tộc Việt-Nam
nên ông tuẫn-quốc ngày 02-11-1963 nhằm ngày 17 tháng
9 năm Quý Mão lúc 8 giờ sáng (giờ Thìn) cùng với bào đệ và cũng là cố vấn
Ngô-đình-Nhu.
II/ Tóm
tắt tiểu sử anh-hùng Ngô-đình-Nhu:
- Là bào đệ của cố Tổng thống Ngô-đình-Diệm. Đồng
thời là người đã xây dựng nền tảng chính trị cho chế độ Đệ Nhất Việt-Nam Cộng-Hòa.
- Ông
Ngô-đình-Nhu sinh ngày 03-10-1910 (có nơi ghi 1911), nhằm ngày 01 tháng 9 năm Canh Tuất tại Huế,
quê quán thuộc làng Đại Phong, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng-Bình.
- Lúc
thiếu thời từng là chủng sinh của Tiểu Chủng viện An Ninh, Cửa Tùng, Quảng Trị.
- Khác
với những người trong gia đình (khuynh hướng Đông phương học), ông Nhu và người em
út Ngô-đình-Luyện có khuynh hướng theo Tây học và được gia đình cho sang Pháp
học Trường Quốc Gia Cổ Điển Học – vào khoảng những năm đầu thập niên 30- (Ecole
Nationale des Chartes).
- Ông
trúng tuyển trong số 20 sinh viên được cho nhập học. Sau 4 năm đèn sách, với tiểu luận mãn
khóa nhan đề : “Les Moeurs Et Les Coutumes Des Annamites Du Tonkin Au XVIIe
Siècle. (Phong Tục Tập Quán Của Người An Nam ở Bắc Kỳ vào thế kỷ XVII)
văn bằng mới nhận tương đương với Cử Nhân Văn Chương Pháp vào năm 1938.
III/ Sự-Nghiệp Thần Kỳ :
1/ Hoạt động chính trị trước năm 1950 tại miền Bắc của Anh-hùng
dân-tộc Việt-Nam Ngô-đình-Diệm:
- Năm 1923, lúc 22 tuổi, được
bổ nhiệm làm Tri Huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên, rồi Tri Phủ Hải Lăng tỉnh
Quảng Trị.
- Năm 1930 được đề cử làm Tuần
Vũ tỉnh Bình Thuận, Phan Thiết với thành tích tận tụy
phục vụ đồng bào.
- Năm 1932, Hoàng Tử Vĩnh-Thụy
từ Pháp về nước và lên ngôi vua lấy hiệu Bảo Đại. Để có thể thực hiện một cuộc
cải tổ cho đất nước. Nhà vua đã mời ông Ngô Đình Diệm, lúc đó mới 31 tuổi, đang
làm Tuần Vũ tỉnh Phan Thiết, đảm nhận chức vụ Thượng Thư Bộ Lại (tương đương như
Thủ Tướng), đồng thời kiêm nhiệm chức Tổng Thư Ký Hội Đồng Hỗn Hợp Pháp-Việt
vào ngày 2 tháng 5 năm 1933. Lúc đó ông Diệm vừa tròn 33 tuổi.
- Với chức vụ quan trọng vừa
đáo nhậm, ông Diệm đã đề nghị thi hành các kế hoạch đổi mới trong quan trường,
như bãi nhiệm hai chức Thống Sứ Bắc Kỳ và Khâm sứ Trung Kỳ, đồng thời thống hợp
hai kỳ Trung Bắc lại cũng như bổ nhiệm một Thống Sứ cho cả hai miền ;
ngoài ra cho phép Viện Dân Biểu được lo những vấn đề quốc sự giống như
Quốc Hội. Tuy nhiên, đề nghị của ông Diệm không được Toàn Quyền Đông Dương là Pasquier
chấp thuận.
- Ngày 12 tháng 7 năm 1933,
ông Diệm đệ đơn lên Hoàng Đế Bảo Đại xin từ nhiệm. Việc từ quan của ông Ngô
Đình Diệm đã gây chấn động lớn cho triều đình Huế và chính phủ Pháp thời đó. Và
kể từ đấy, dân gian gọi ông là chí-sĩ Ngô-đình-Diệm. Chí sĩ là người có chí và
có tiết-tháo (VNTĐ trang 287); Tiết-tháo: Khí-tiết, tánh cứng-cỏi, một niềm
không dời đổi (VNTĐ trang 1413). Chí-sĩ theo Hán-Việt Tự-Điển của học giả
Đào-duy-Anh định nghĩa là người có chí-khí cao xuất hơn người lưu-tục (HVTĐ trang
161).
- Với quyết tâm rời bỏ quan
trường để theo đuổi lý tưởng canh tân và độc lập cho đất nước, chí-sĩ
Ngô-đình-Diệm đã lui về làm người dân thường…
- Trong thời gian này, Ngô
chí-sĩ được vua Bảo-Đại cho phép dạy học ở trường Providence, Huế. Để thực hiện
lý tưởng của mình, ông đã âm thầm liên lạc với những nhà ái quốc khác như cụ Kỳ
Ngoại Hầu Cường-Để, cụ Phan-bội-Châu v.v…
- Vào những năm 1939-1945,
Toàn quyền Đông Dương là Thủy sư Đô Đốc Jean Decoux đã chỉ thị cho Khâm sứ
Trung kỳ là Émile Grandjean bắt và đưa Ngô chí-sĩ đi an trí ở Xieng Khoang, Lào
quốc. Thời may, chí-sĩ có được sự giúp đỡ của ông Nguyễn-bá-Mưu làm Thông phán
nơi Tòa Khâm sứ, rồi ông Trần-văn-Dĩnh đã giúp vượt thoát vào Sải Gòn lánh nạn.
- Lánh nạn ở Sài Gòn một thời
gian, ông rời nơi đây đi Huế để thăm mẹ nhưng bị Việt cộng (Việt Minh lúc đó)
chận bắt ở Tuy-Hòa. Hồ-chí-Minh định đưa ông đi an trí ở Thái-Nguyên, nhưng
Giám-mục Lê-hữu-Từ đã lên tiếng phản đối quyết liệt, buộc lòng ông Hồ-chí-Minh
phải trả tự do và mời làm Bộ Trưởng Nội Vụ. Thế nhưng, chí-sĩ Ngô-đình-Diệm đã
dứt khoát chối từ.
- Tháng 8 năm 1950 rời Sài Gòn
đi La Mã cùng người anh là Giám Mục Ngô-đình-Thục dự lễ Năm Thánh. Trên đường
đi ông Diệm ghé qua Đông Kinh, thủ đô Nhật Bản. Tại đây ông tiếp xúc với một số
người Mỹ, trong đó có Giáo sư Wesley Fishel. Giáo sư Fishel khuyên ông Diệm nên
sang thăm Hoa Kỳ. Cũng trong dịp này ông Diệm đã ghé thăm các nước Bỉ,
Thụy Sĩ và Pháp. Tại Bỉ, Ngô chí-sĩ đã ngỏ ý muốn trở thành đan sĩ của đan viện
Saint-André (theo lời thuật lại của Cha viện phụ René Forbe nhân lễ giỗ lần thứ
50, 02-11-2013 tổ chức tại Brugge, Vương quốc Bỉ).
Cha viện phụ René Forbe công bố bức thư của Ngô chí-sĩ xin
làm đan sĩ tại đan viện này.
- Qua lời gợi ý của Gs Wesley
Fishel ông Diệm quyết định sang Hoa Kỳ. Thời gian đầu cư trú ở nhà Dòng Mary
Knoll, ở Lakewood thuộc tiểu bang New Jersey và ở Ossining tiểu Bang New
York. Cần nói thêm rằng, thời gian tạm trú ở Hoa Kỳ, ông Diệm đã tự trau dồi
thêm tiếng Anh để có phương tiện vận động chính giới, truyền thông Mỹ. Sau đó, được
các trường đại học ở miền Trung và Trung Tây HK mời đến thuyết giảng vấn đề Châu
Á, Việt-Nam và hiểm họa Cộng-sản.
- Lần lượt, Đức Hồng Y Francis
Spellman (Tổng Giám Mục Nữu Ước, là bạn thân của Giám mục Ngô Đình Thục), đã
giới thiệu và ông Diệm được gặp một số nhân vật trong chính giới Mỹ như
các ông Mike Mansfield, Clement J. Zablock, J. McCormack, Dân biểu Walter Judd,
William Douglas (Vị Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện). Ông William Douglas, đã đưa
ông Diệm đi ăn trưa với TNS Kennedy. Trong khi Đức Hồng Spellman cũng
quen biết với đại sứ Joseph Kennedy (đại sứ Mỹ tại Anh Quốc).
- Theo ông Robert Amory (phó
giám đốc CIA) cho biết, ông đã từng nghe đến tên tuổi ông Diệm,
qua thẩm phán Tối Cao Pháp Viện William Douglas trong một buổi tiệc.
- Trong buổi họp tiếp theo, ông Robert Amory đem
chuyện ông Diệm ra nói với giám đốc Allen Dulles và phó giám đốc Frank
Wisner. Lúc này CIA có vẻ chọn lựa bác sĩ Phan Quang Đán làm người thay thế vua
Bảo Đại. (Theo William Gibbons, "The US Government and Vietnam War", trang 261).
- Tác giả John Cooney (1985) đã viết: "…chính Hồng Y Spellman đã đóng một vai trò rất quan trọng trong
việc tạo nên sự nghiệp chính trị, của một người đã ở trong một Trường Dòng ở
New York trước đây, vừa trở thành Thủ tướng của miền Nam Việt Nam
là ông Ngô Đình Diệm. Ở Diệm, Spellman nhìn thấy những đặc điểm mà
ông ta muốn có trong một người lãnh đạo: Công giáo nồng nhiệt và chống Cộng đến
cùng."[1] -ngưng trích-
Tiểu sử tổng thống Ngô-đình-Diệm của Ngô-đình-Châu
- “Tháng 9 năm 1947, Pháp chính
thức trao trả độc lập cho Việt Nam với vua Bảo Đại qua Hiệp Ước Vịnh Hạ Long ký
ngày 5 tháng 6 năm 1948.Vua Bảo Đại chọn mẫu cờ vàng ba sọc đỏ của Họa Sĩ Lê
Văn Đệ vẽ nối dài 3 vạch đỏ của cờ Quẻ Càn) làm quốc kỳ và bản “Tiếng Gọi Sinh
Viên” sau đổi là “Tiếng Gọi Thanh Niên”của Lưu Hữu Phước làm Quốc Ca.
- Ngày 8 tháng 3 năm 1949, Tổng
thống Pháp Vincent Auriol và Cựu hoàng Bảo Đại đã ký Hiệp ước Elysée, thành lập
Quốc gia Việt Nam trong khối Liên hiệp Pháp, đứng đầu là Quốc trưởng Bảo
Đại. Một thành tựu ngoại giao của Quốc gia Việt Nam là việc thâu hồi chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa từ tay Nhật Bản vừa mới thất trận tại Hội nghị San Francisco Tháng
Chín năm 1951.
- Cộng sản Việt Nam (Việt Minh) đã giành độc quyền kháng chiến bằng cách loại
bỏ thẳng tay (tàn sát) những thành phần dân tộc không cộng sản. Do nguyên nhân
đó, những thành phần dân tộc đã thấy ra nhu cầu cần kết hợp thành một lực lượng
quân sự duy nhất để chống lại cộng sản, nhưng bất đắc dĩ phải đứng chung chiến
tuyến với Pháp”. -ngưng trích- Việt-Nam Sử-Lược Tân Biên của Trúc-Lâm
Nguyễn-Việt Phúc-Lộc.
- Và đó cũng là lý do Quân-Đội Quốc-Gia
Việt-Nam được hình thành.
2/ Hoạt động chính trị trước năm
1950 tại miền Bắc của Anh-hùng dân-tộc Việt-Nam Ngô-đình-Nhu:
- Năm
1943 ông Ngô-đình-Nhu thành hôn với cô Trần-lệ-Xuân tại Hà-Nội (cuộc hôn nhân
này đã gây xôn xao trong dư luận Hà thành vào lúc đó).
- Làm
Quản Thủ Văn khố Toà Khâm Sứ Huế năm 1943 sau ra Hà Nội làm việc tại Thư Viện
Trường Viễn Đông Bác Cổ và Tổng Văn Khố Quốc Gia năm 1945, thời Thủ Tướng
Trần-trọng-Kim. Sau chính biến tháng 8-1945, ông Ngô- đình-Nhu tiếp tục làm ở Văn Khố theo sự bổ nhiệm của Bộ
Trưởng Nội Vụ Võ Nguyên Giáp (người của Việt Minh).
- Trong
khi làm việc ở Văn Khố, ông NĐNhu là 1 trong 14 thành viên trong Ban Cải Cách
Giáo Dục, phụ trách Chương Trình Trung Học do Giáo sư Hoàng-xuân-Hãn Bộ trưởng
Bộ Giáo Dục đứng đầu.
- Ngày 28-08-1945, ông Ngô-đình-Khôi (cai quản đất Quảng-Nam) và người con
Ngô-đình-Huân (thanh tra lao động) bị Việt Minh giết chết. Vì hoạt động của hai
ông NĐKhôi và NĐHuân gây rất nhiều khó khăn cho VM trong việc xử dụng bạo lực
Cộng sản vùng đất Quảng Nam. Người bị thủ tiêu chung còn có Thượng Thư Bộ Lại
Phạm-Quỳnh.
- Sau ngày 19-12-1946, khi Việt Minh phát động cuộc chiến
chống Pháp (thực tế là do họ rước Pháp vào qua hiệp định sơ bộ, để lợi dụng
Pháp tiêu diệt người Quốc gia. Nhưng sau đó bị Pháp trở mặt), ông Nhu cùng
những người cùng chí hướng đã tìm cách thoát khỏi Hà Nội chạy vào khu Bốn ở
vùng Thanh Nghệ. Còn bà Nhu một mình chạy thoát về Phú Cam. Khi vượt thoát khỏi
Hà Nội, ông Nhu cùng những người cùng chí hướng âm thầm tích cực chuẩn bị sự
nắm quyền của ông Ngô-đình-Diệm.
- Thành lập Liên Đoàn Kháng Chiến Cần Lao Việt-Nam ở an
toàn khu Phát-Diệm (khoảng cuối năm 1946). Tại đây, ông Nhu đã cùng với một số
nhân sĩ, người cùng chí hướng như LS Lê Quang Luật, Hoàng Bá Vinh, Trần Kim Tuyến,
Đái Đức Tuấn, tức Mai Nguyệt, Tchya, thành lập Nhóm Xã Hội Công Giáo
(1946-1954) là cột trụ sau này cho Đảng Cần Lao Nhân Vị.
- Khi Việt Minh bị đánh bật ra khỏi Hà Nội, ông Nhu trở
về Hà thành và được tin bà Nhu sống an toàn ở Huế rồi Đà Lạt cùng với gia đình
người chị là Lệ Chi.
- Biết được tin vợ sống ở Đà Lạt, ông đã tìm vào. Tại nơi
đây, hai người đã sống với nhau hết sức tình nghĩa, đầm ấm, bảo bọc nhau để
chung lo việc nước, đợi lúc nắm cờ trong tay. Phải nói là « Ông Nhu can
trường chịu đựng », « Bà Nhu nhẫn nại hy sinh ».
- Năm 1950 khi ông Ngô-đình-Diệm qua Mỹ, ông Nhu vào Sài
Gòn sinh sống và liên lạc với các tổ chức đảng phái cũng như xuất bản
Nguyệt-San Xã-Hội phổ biến tư tưởng chính trị của cá nhân.
- Tháng 09-1953 tham gia Phong Trào Đại Đoàn Kết và Hòa
Bình với tư cách đại diện Công Giáo. Ngày 06-09-53 phong trào này họp tại Sài
Gòn quy tụ 65 đại biểu bao gồm Công Giáo, Cao Đài, Hoà Hảo, Bình Xuyên, Đại
Việt, Việt Nam Quốc Dân Đảng cùng nhân sĩ, trí thức Trung, Nam, Bắc.
- Ngày 07-05-1954, căn cứ Điện Biên Phủ thất thủ.
- Ngày 07-07-1954, Thủ tướng Ngô-đình-Diệm (Quốc trưởng
Bảo-Đại ủy nhiệm) trình diện chính phủ mới ở Sài Gòn và ông Ngô-đình-Nhu ở vai
trò Cố vấn (không chính thức) cho đến khi tuẫn-quốc vào ngày 02-11-1963 cùng với
bào huynh, Tổng-thống Ngô-đình-Diệm.
3/ Sự Thành lập và điều hành chính thể Đệ Nhất Việt-Nam Cộng-Hòa của
hai anh-hùng dân-tộc Việt-Nam Ngô-đình-Diệm và Ngô-đình-Nhu.
- Ngày 07-05-1954, căn cứ Điện Biên Phủ thất thủ.
- Trước tình hình này, vua Bảo Đại chính thức mời (ba lần) Ngô
chí-Sĩ về nước chấp chánh ở cương vị thủ tướng toàn quyền về dân và quân sự. Khi
chí-sĩ Ngô-đình-Diệm nhận nhiệm vụ này, nhiều phóng viên quốc tế có cảm tình lo ngại rằng ông không thể đảm
đương nhiệm vụ quá một năm.
- Ngày 07-07-1954, chí-sĩ Ngô-đình-Diệm chính thức trở
lại quê nhà với cương vị Thủ tướng để gánh vác trọng trách đối với quốc dân
Việt-Nam. Thủ tướng Ngô-đình-Diệm đã trình diện chính phủ mới ở Sài Gòn và ông
Ngô-đình-Nhu ở vai trò Cố vấn (không chính thức).
- Ngày 20-07-1954 hội nghị chia đôi Việt-Nam ở vĩ tuyến
17 diễn ra ở thành phố Genève, Thuỵ-Sĩ. Ngoại trưởng Trần-văn-Đỗ (đại diện chính
quyền Quốc Gia Việt Nam) kịch liệt phản đối sự chia đôi này và không ký vào văn
bản của hiệp định. Hoa Kỳ cũng không ký vào văn bản.
- Hiệp định này do Trung cộng, Nga Xô, Pháp và đảng
Cộng-sản Việt-Nam (tiền thân là đảng Lao-Động Việt-Nam) đồng tác giả.
- Ở Hà Nội khi nghe tin đất nước VN bị chia cắt ở vĩ
tuyến 17, các tổ chức quốc gia tập hợp thành một mặt trận chống cộng và phản
đối kịch liệt, đồng thời quyết định tổ chức cướp chính quyền và ở lại chiến đấu
giữ cố đô Thăng Long. Mọi việc đang được chuẩn bị chu đáo, thì giữa chừng bị bỏ
dỡ, vì Đỗ Đình Đạo (cán bộ VNQĐD) bị Thụy An (tay sai thực dân Pháp và cộng
sản) đầu độc chết. Các tổ chức quốc gia dân tộc đành phải đau đớn rời khỏi kinh
thành Thăng Long yêu quý theo quy định của hiệp định.
- Ngày
22/07/1954, Thủ tướng Ngô Đình Diệm ra lệnh treo cờ rủ toàn Miền Nam từ vĩ tuyến
17 trở vào để bày tỏ quan điểm chống đối chia đôi đất nước. ”. -ngưng trích-
Việt-Nam Sử-Lược Tân Biên của Trúc-Lâm Nguyễn-Việt Phúc-Lộc.
- Sau khi về nước chấp chánh, đúng lúc đất nước bị chia
đôi, miền Nam lại chia năm xẻ bẩy: nào Bình Xuyên, Cao Đài, Hòa Hảo, nào phe
thân Pháp, phe thân Cộng. Quốc gia thì chậm tiến, xã hội thì đầy tệ đoan, dân
trí thì thấp kém. Ðó là chưa kể đến sự phá hoại ngấm ngầm của thực dân
Pháp. Các chính trị gia thì mỗi người một chính kiến. Cụ Ngô Đình Diệm lại
chẳng ở trong một đảng phái nào. Vậy mà cụ Ngô Đình Diệm cũng đã lo được cho cả
triệu người Bắc di cư vào Nam để tránh nạn Cộng Sản, ổn định được miền Nam và
lập lên nền Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam với một thể chế dân chủ tuy không được
hoàn hảo như các nước tân tiến tây phương nhưng cũng đủ để đem lại cho người
dân một cuộc sống tự do dân chủ và an toàn -ngưng trích- Lê-duy-San | Nhân ngày giỗ thứ 50 Tưởng Nhớ Về Cụ
Ngô-đình-Diệm http://www.truclamyentu.info/tlls_thu-vien-bo-de-online/tvbd_lds_nhan-ngay-gio-50-nam-tuong-nho-tt-ngo-dinh-diem.htm
Bộ tem Chiến Dịch Huynh Đệ phát hành ngày 11-10-1955 nhân dịp kỷ-niệm "Đệ-nhất Chu-niên Di-cư của đồng bào
Bắc và Bắc Trung Việt". –trích bộ sưu tập của Trúc-Lâm Nguyễn-Việt
Phúc-Lộc http://www.truclamyentu.info/tlls_temthuvietnam/vietnamstamps_1955.htm
Thủ-tướng Ngô-đình-Diệm
đang gắn cấp bậc Thiếu tướng QĐQGVN cho tướng Trình-minh-Thế (người đứng giữa)-
http://www.truclamyentu.info/dialinhnhankietcuavn/thap-dai-than-tuongvn_than-tuong-trinh-minh-the.htm
- Ngày
13-02-1955, thủ tướng Ngô-đình-Diệm chính thức tiếp nhận Tướng Trình-minh-Thế
Tham mưu trưởng quân đội Cao-Đài cùng với 8000 binh sĩ gia nhập quân đội quốc
gia. Đích thân thủ tướng đã trao mũ nón và ngôi sao thiếu tướng cho tướng Trình-minh-Thế.
- Ở
cương vị Thủ-tướng của Quốc-Gia Việt-Nam, thủ tướng Ngô-đình-Diệm không nhận được
sự giúp đỡ từ vua Bảo-Đại, ngược lại, chỉ có những sự gây khó khăn cản trở cho
công việc phụng vụ đất nước của ông. Cụ thể, cựu
hoàng Bảo-Đại muốn đưa Bảy Viễn lên nắm chức thủ tướng thay thế thủ tướng Ngô-đình-Diệm
qua hai lá thư triệu hồi thủ tướng sang Pháp gấp.
- Ngày 29-04-1955 một hội nghị họp các chính đảng và đoàn thể tại Dinh Độc-Lập
để hỏi ý kiến về việc thư triệu hồi thủ-tướng
NĐDiệm của vua Bảo-Đại. 18 chính đảng/đoàn thể và 29 nhân sĩ miền Nam đồng ý truất phế Bảo-Đại và ủy nhiệm thủ tướng Ngô-đình-Diệm
thành lập chính thể Cộng-Hòa.
Quang cảnh tòa Đô Chánh Sài Gòn ngày 26-10-1955, tổ chức Trưng
Cầu Dân Ý truất phế vua Bảo-Đại và suy tôn Tổng thống Ngô-Đình-Diệm
- Ngày 20-07-1955, chính phủ Ngô-đình-Diệm tuyên bố
không chấp nhận chuẫn bị tổng tuyển cử qui định bởi Hiệp ước Genève.
- Ngày 26-10-1955, tổ chức Trưng Cầu Dân Ý để truất phế vua Bảo-Đại với tổng
số phiếu vào khoảng gần 6 triệu. Trong đó 5.721.725 phiếu đồng ý truất phế Bảo-Đại;
63.017 phiếu chống đối và 44.105 phiếu hư.
- Tháng
03-1956 bầu quốc hội lập hiến với 134 dân biểu.
- Ngày
26-10-1956, ban hành Hiến Pháp Đệ Nhất Cộng-Hòa, đồng thời chọn ngày này
là Quốc-Khánh và thủ tướng Ngô-đình-Diệm trở thành Tổng thống. Quân Đội Quốc Gia Việt-Nam đổi tên thành Quân Lực Việt-Nam Cộng-Hòa. (bài Quân
Lực Việt-Nam Cộng-Hòa tự truyện của tác giả Phạm-bá-Hoa ghi là Tháng 07-1955,
thủ tướng Ngô-đình-Diệm đã đổi tên Quân Đội Quốc Gia Việt-Nam thành Quân-Đội
Việt-Nam Cộng-Hòa; bài Lịch Sử Hình Thành Quân Đội Việt Nam của Trần Hội & Trần Ðỗ Cẩm ghi ngày 26 tháng
10 năm 1955, khi cử hành lễ đăng quan của tổng thống Ngô Ðình Diệm và cũng là
ngày khai sinh nền Ðệ Nhất Cộng Hòa. Quân Ðội Quốc Gia được đổi tên là Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa.

Lá quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ là linh hồn của Chính Danh, Chính
Nghĩa và Chính Thống của dân tộc Việt-Nam
- Đệ Nhất Việt-Nam
Cộng-Hòa được thành lập đã tạo cho hàng ngủ người Việt quốc gia Chính Danh, Chính
Nghĩa và Chính Thống. Lá quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ là linh hồn của Chính Danh, Chính
Nghĩa và Chính Thống của dân tộc Việt-Nam.
- Năm
1956, Tổng-thống Ngô-đình-Diệm đã ban hành 3 Nghị Định xác nhận chủ quyền trên
hai Quần đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa. Và trong đợt cải tổ Hành Chánh năm 1956,
ban hành Nghị định cải danh tỉnh Bà Rịa thành tỉnh Phước Tuy và đặt Quần đảo Trường-Sa thuộc quyền quản hạt của tỉnh nầy. –ngưng trích- Cột mốc
Chủ-Quyền do Hải-quân Việt-Nam Cộng-Hòa đặt trên Trường-Sa ngày 22 tháng 8 năm
1956 - Nguyễn-Nhơn http://www.truclamyentu.info/tlls_trang_nguyennhon/cotmocchuquyentruongsacuavnch.htm

Cột mốc CHỦ QUYỀN do Hải quân VNCH đặt
trên Trường Sa ngày 22 tháng 8 năm 1956 (hình bên trái) ; Hình chụp
các chiến sĩ Hải kích Việt Nam Cộng Hòa cạnh một tấm bia chủ quyền khác trên
đảo Trường Sa (hình bên phải).
- Trong khi đó ở miền
Bắc, ông Phạm-văn-Đồng, thủ tướng Việt-Nam Dân-Chủ Cộng-Hòa ký công hàm công
nhận chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung cộng - Đặng-chí-Hùng | Những sự thật cần phải biết (phần
18) - Tội ác của Phạm Văn Đồng http://www.truclamyentu.info/tlls_thu-vien-bo-de-online/tvbd_toi-ac-cua-pham-van-dong.htm

Công hàm Phạm-văn-Đồng công nhận chủ quyền của trung cộng trên các đảo hoàng sa và trường sa của Việt-nam Cộng-Hòa
- Từ 1955 đến 1963 là những năm dân Việt sống
sướng nhất. “Ở Việt Nam
công nhân và người dân lao động là thành phần chiếm đa số trong xã hội nên mức
sống của họ có thể là cán cân đo lường sự chăm lo cho dân của chính phủ đang
cai trị quốc gia. Với mục đích đó tôi kính cùng quí vị quan sát những điểm sau
đây:
- Lương công nhân từ 1956 đến 1974 và lương công nhân năm 2006
- Giá gạo của các năm 1956 đến 1974, cùng giá gạo của năm 2006
- chỉ số giá tiêu thụ của công nhân từ 1956-1974
- so sánh lương công nhân và chỉ số giá tiêu thụ từ 1956-1974
- Lương công nhân tính ra kg gạo
Năm 2006 được chọn để so sánh vì năm 2006 là một trong những năm phát triển
mạnh nhất của Việt Nam
cộng sản.
Lương Công nhân lao động
Lương của người lao động được phân biệt có nghề hay không có nghề chuyên
môn. Sự chêch lệch giữa lương của người có nghề và không có nghề rõ ràng nhất
vào năm 1956 với 76%:

Và Lương của người
lao động không có nghề tăng 50% trong vòng 6 năm từ 1956 đến năm 1962 trong khi
đó vật giá chỉ tăng tổng cộng 3,6% trong thời gian này. Nghĩa là đời sống của
người dân tăng rất cao, ít nhất 46% trong vòng 6 năm trời. Đặc biệt vật giá
giảm hơn 4,4% vào năm 1957 và giảm gần 2% trong năm 1958 trong khi lương thợ
tăng hơn 23% trong năm này.

Biểu thị trên đây so sánh chỉ số lương người lao động không có nghề và chỉ
số giá tiêu thụ trên tiêu chuẩn của năm 1962. Đường xanh biểu thị cho chỉ số
lương thợ, đường đen cho chỉ số giá tiêu thụ. Nếu đường xanh nằm bên dưới đường
đen có nghĩa là đời sống của người thợ thấp hơn năm 1962. Năm 1963 đường xanh
nằm dưới đường đen, vật gía tăng cao hơn lương, đời sống nguời lao động thấp
hơn năm 1962. Điều này có thể giải thích rằng, sự biến loạn trong năm 1963 đã
làm vật giá tăng nhảy vọt”. –ngưng trích- Nguyễn-Hội | Thời Nào Dân Việt Sướng
Nhất - http://www.vietnamdefence.info/lichsuvietnamconghoa/vnch_thoi-nao-dan-viet-suong-nhat.htm
- TT Diệm
đã đưa thành phố Sài Gòn từ một nơi không ai biết nhiều trên thế giới trở thành
Hòn Ngọc Viễn Đông sau 5 năm cầm quyền (1955-1960).

Một thời Sài-Gòn Hòn ngọc Viễn
Đông của Việt-Nam Cộng-Hòa (1955-1963)

Đường phố Việt cộng, Việt-Nam Dân-Chủ
Cộng-Hòa (1955-1963) - Danlambao: Những Sự-Thật Cần Phải Biết: - Việt-Nam Cộng-Hòa -
Nạn Nhân Của Chính-sách "Ngậm Máu Phun Người" - http://www.truclamyentu.info/tlls_blogdanlambao/nhungsu-thatcanphaibiet.htm
- Trong
9 năm cầm quyền, Tổng-thống Ngô-đình-Diệm, Cố vấn Ngô-đình-Nhu đã thành lập Sở Nghiên
Cứu Chính Trị, Sở Nghiên Cứu Địa Lý (cơ quan tình báo chiến-lược) để đối đầu với
sự xâm nhập, phá hoại của Trung cộng, Việt cộng từ miền Bắc. Cơ quan này gây
thiệt hại nặng nề cho các cơ sở nằm vùng cũng như cơ quan điệp báo của Hà Nội,
Bắc Kinh. Ngoài ra còn phải kể đến các kế hoạch xây dựng Ấp Chiến-Lược, Khu Trù
Mật trong cùng mục tiêu ngăn chận sự xâm nhập, trà trộn của cán bộ Trung cộng,
Việt cộng vào nông thôn, thành thị của VNCH. Nhờ những nỗ lực này, chiến tranh
phá hoại và bành trướng của Trung cộng, Việt cộng không thể nào thực hiện được -
Thần Tướng Phan-quang-Đông (1929-1964) http://www.quansuvn.info/D_1-2_2-85_4-5140_15-2/
- Ngoài ra, còn phải kể đến “Đoàn Công Tác
Đặc Nhiệm Miền Trung do ông Ngô-đình-Cẩn thành lập, và giao cho ông Dương Văn
Hiếu chỉ huy. Điểm lại thành quả của tất cả các cơ quan tình báo VNCH thì Đoàn
Đặc Nhiệm Miền Trung là một trong những cơ quan tình báo hữu hiệu nhất. Cụ thể,
Đoàn Đặc Nhiệm Miền Trung đã làm cho Cụm Tình Báo Chiến Lược của Cộng Sản Hà
Nội xấc bấc xang bang, dở sống dở chết với 95% cơ sở đã bị tận diệt, và một số
phải di tản ngược ra Bắc vì không còn đất sống.
Đáng chú ý là 80% điệp viên của bọn chúng bị đoàn Công Tác Miền Trung bắt
giữ. Trong đó có Thiếu Tướng tình báo việt cộng Mười Hương, Đại Tá tình báo
việt cộng Lê Câu, cùng hằng trăm tên tình báo chiến lược và phái khiển tình báo
khác. Ông Ngô Đình Cẩn cũng là một chuyên viên lão luyện về chống du kích cộng
sản -ngưng trích- Liên-Thành | Ba Thế Lực, Một Nỗi Oan Tình, Ông Ngô-đình-Cẩn
Bị Xử Bắn http://www.quansuvn.info/D_1-2_2-235_4-5131_15-2/
- Vào
lúc này, Việt-Nam Cộng-Hòa đang thắng thế, do đó, Việt cộng đã tìm cách đàm
phán với chính phủ của tổng-thống Ngô-đình-Diệm. Trong Cuộc Họp Báo Quốc Tế của Madame Ngô Đình Nhu về Sự
Thật Lịch Sử Cận Đại của Việt Nam 1963-1975 có đoạn: “…
có tin đồn rằng bởi vì chồng của bà cảm thấy bị phản bội bởi người Mỹ nên
ông đã thực hiện những cuộc thương lượng với CS Bắc Việt. Bà cũng có thể bình
luận về điều này?
Madame
Nhu:
Những
cuộc thương lượng với CS? Thực ra, như tôi đã giải thích, chúng tôi đã thắng
cuộc chiến. Nếu chúng tôi không thắng cuộc chiến, thì không bao giờ Chính phủ
Mỹ nhảy vào Việt Nam. Chúng tôi đã thắng cuộc chiến. Những người CS đã không
dám leo thang. Họ chỉ có một sự lựa chọn duy nhất: hoặc leo thang - họ không
dám - hoặc đàm phán. Vì vậy, chính họ là người gửi người đến chúng tôi bởi vì
chồng tôi đã tìm thấy một giải pháp chống lại cuộc chiến tranh phá hoại. Giải
pháp đó cho phép người dân của ông sống trong chiến tranh, phòng thủ từ xa mặc
dù có chiến tranh.
Và do đó những người Cộng sản không thể làm bất cứ điều gì. Vì vậy, thay vì leo
thang chiến tranh, họ đã không làm, mà họ gửi người của họ đến nói chuyện với
chồng tôi và chuyện này đã được xoay, xoay trở ngược chống lại chồng tôi như
thể ông đã thực hiện những bước đầu tiên đó. Không, không đúng một chút nào.
Đây là một sự dối trá. Không đúng một chút nào. Chính là họ là những người CS
đã thực hiện những bước đầu tiên đó”. -ngưng trích- Cuộc Họp Báo Quốc Tế của Madame Ngô Đình Nhu về Sự Thật Lịch Sử Cận Đại
của Việt Nam 1963-1975 http://ubtttadcsvn.blogspot.com/2013/04/cuoc-hop-bao-quoc-te-cua-madame-ngo-inh.html
- Kể
từ năm 1960, Hoa Kỳ không còn ủng hộ Tổng thống Ngô-đình-Diệm vì muốn can thiệp
trực tiếp vào chiến cuộc Việt-Nam, đồng thời mượn đường VNCH để bắt tay và xâm
nhập thị trường Trung cộng. Quan điểm của TT Diệm là không
chấp nhận quân Mỹ tham chiến trực tiếp ở Việt-Nam vì làm như vậy cuộc
chiến đấu chống Trung cộng và Việt cộng của dân tộc Việt-Nam sẽ mất đi chính
nghĩa.
- Là người thấm nhuần đạo lý Nho giáo, đồng thời là một tín hữu, thêm vào đó,
tổng-thống Ngô-đình-Diệm có tinh thần yêu nước nồng nàn và ý chí chống cộng mãnh
liệt, ông đã phân biệt rất rõ ràng giữa tôn giáo và chính phủ.
- Dù vậy, ông vẫn hỗ trợ tích cực cho Phật giáo; ngược lại đối với Công giáo,
hầu như TT Diệm không có những hỗ trợ cụ thể. Rất nhiều ngôi chùa đã được xây dựng,
trùng tu như :


Chùa Nam
Thiên Nhất Trụ
Cũng như ủng hộ Phật giáo Tây Tạng của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14.

Khi được tổ-chức Leadership Magsaysay
trao tặng giải thưởng là nhà lãnh đạo chói sáng nhất Châu Á lúc bấy giờ.
Tổng-thống Ngô-đình-Diệm đã rất khiêm-nhường và kín đáo biếu lại số hiện kim 15
ngàn Mỹ kim (trị giá của giải thưởng vừa nêu) cho đức Đạt-Lai Lạt-Ma khi ngài
cùng chư tăng ni, Phật tử rời khỏi Tây-Tạng bị Trung cộng chiếm đóng chạy sang
tỵ-nạn ở Ấn-Độ và Tích-Lan. -ngưng trích- Bản Lên Tiếng Thứ Ba_Liên
Quan Đến Án-Mạng Giết Chết Hòa Thượng Thích Quảng-Đức Ngày 11-06-1963 - http://www.quansuvn.info/D_1-2_2-89_15-2_4-4667_5-10_6-4_17-169_14-2/
- Ngày 08-05-1963 xảy ra vụ nổ ở đài
phát thanh Huế do nhân viên CIA tên Scott gây ra làm chết 7 Phật tử và 1 nữ tín
hữu Công giáo, cũng như sau đó, nhóm Phật giáo Ấn-Quang do Trí-Quang cầm đầu đã
đưa ra Tuyên Ngôn 5 điểm (qua Ủy Ban Liên Phái) đòi hỏi chính phủ phải giải quyết.
Là một nhà lãnh đạo có đạo đức và nhân từ, cho dù sự kiện không phải là chính
phủ VNCH gây ra, nhưng TT NĐDiệm vẫn tích cực giải quyết.
- Sau cái chết của Hòa thượng Thích
Quảng-Đức ở Sài Gòn ngày 11-06-1963, Tổng-thống Ngô-đình-Diệm đánh giá việc này
là án mạng… “sự hòa giải đang tiến hành tốt đẹp thì sớm nay do sự tuyên
truyền quá khích che dấu sự thật gây sự hoài nghi về thiện chí của chính phủ
khiến một số người bị đầu độc gây một án-mạng oan uổng làm tôi rất đau lòng” (nguyên
văn) -ngưng trích- Bản Lên Tiếng Thứ Tư_Phản Đối Giáo Hội
Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Đồng Hành Với Cộng-Sản Việt-Nam Liên Quan Đến
Án-Mạng Của HT Quảng-Đức - http://www.quansuvn.info/D_1-2_2-235_4-4690_15-2/
- Nhằm ngăn chận đà bành trướng của Hán
tộc cũng như canh tân Quân Đội Việt-Nam Cộng-Hòa và nâng cao đời sống nông dân
Việt-Nam, tổng thống Ngô-đình-Diệm đã tổ chức lại hệ thống giáo dục, huấn luyện
Quân Đội của miền Nam như:
1/ Cải biến Trường Quốc Gia Hành
Chánh và nâng cao trình độ thành Học Viện Quốc Gia Hành Chánh; 2/ Cải biến
Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt và nâng cao trình độ thành Trường Võ Bị Quốc Gia
Đà Lạt; 3/ Việt Hóa các trường Trung Học và Đại Học; 4/ Hữu Sản Hóa Nông Dân - Lê-duy-San | Nhân ngày giỗ thứ 50 Tưởng
Nhớ Về Cụ Ngô-đình-Diệm http://www.truclamyentu.info/tlls_thu-vien-bo-de-online/tvbd_lds_nhan-ngay-gio-50-nam-tuong-nho-tt-ngo-dinh-diem.htm
Khi cuộc
chính biến 01-11-1963 xảy ra, Tổng-thống Ngô-đình-Diệm chấp nhận hy sinh bản thân
chứ không ra lịnh quân đội trung thành với chính phủ bắn vào quân đảo chánh.
Anh-hùng
Ngô-đình-Diệm và anh-hùng Ngô-đình-Nhu là một sự tổng hợp hài hòa giữa hai nền
văn minh Đông phương đạo đức nhân nghĩa và Tây phương của kỹ-thuật và năng động.
Mặc dù giai đoạn xuất hiện của hai ông quá ngắn trên chính trường Việt-Nam nhưng
lại ở vào những thời điểm khó khăn nhất, quyết liệt nhất của đất nước, hai
người đã chứng tỏ bản lãnh của những nhà lãnh đạo chính trị, quân sự kiệt-xuất nhất
của dân-tộc Việt-Nam từ hơn 200 năm trở lại đây.
Tài
năng chính trị, quân sự kiệt-xuất của hai ông chỉ đứng sau Thiên Tài Quân Sự
Quang-Trung Hoàng Đế (http://www.quansuvn.info/D_1-2_2-129/) cũng như Trúc-Lâm
Đệ Ngũ Tổ Ngô-thời-Nhậm (http://www.quansuvn.info/D_1-2_2-100_4-4481_5-10_6-2_17-587_14-2_15-2/).
Âu châu,
hoàn thành ngày 02-11-2013 hiệu
đính ngày 06-11-2013, Việt lịch 4892, Phật lịch 2557
Trúc-Lâm Nguyễn-việt phúc-Lộc, tổng thư ký Hội Sử-Học
Việt-Nam
Tham khảo :
Thần Việt Điện 2010_Tân U Linh Việt Điện http://www.vietnamdefence.info/than-viet-dien_tan-u-linh-viet-dien-2010.htm
Lịch-Sử
Việt-Nam Cộng-Hòa http://www.vietnamdefence.info/lichsuvietnamconghoa.html
@ Quân-Sử Việt-Nam
Follow @quansuvnTweett