Là Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa,
Điều 1: Tôi nguyện chấp nhận
mọi hy sinh gian khổ để chiến đấu bảo vệ cho sự sống còn của Tổ
Quốc, của gia đình và của chính bản thân tôi.
Điều 2: Tôi tuyệt đối chấp hành các mệnh lệnh của cấp chỉ huy, đề
cao cảnh giác trước mọi âm mưu tuyên truyền chia rẽ của giặc cộng.
Điều 3: Tôi luôn kính già, thương trẻ, đứng đắn với phụ nữ và giúp đỡ đồng bào.
Điều 4: Tôi luôn tâm niệm hành động làm mất lòng dân là xua dân về phía giặc cộng, là tự sát.
Điều 5: Tôi luôn đối xử tử tế với tù hàng binh
địch (VC), không ngược đãi đánh đập họ, không đụng đến của riêng
họ, để thêm bạn bớt thù.
Điều 6: Thực hiện các điều trên là tôi tích cực
xây dựng tự do cho đất nước, đem lại hạnh phúc cho toàn dân, tôi
sẽ được đền bù bằng sự cảm mến và biết ơn của Đồng Bào.
---------------

Nhân dịp tưởng-niệm lần thứ 39, 40 năm ngày Giỗ-Trận
Hoàng-Sa 19-01-1974 - 19-01-2013, 2014, Quốc Khánh Việt-Nam Cộng-Hòa 26-10-2013, Quốc Hận 30-04-2013, 2014, Hội Sử-Học
Việt-Nam xin gởi đến quý độc giả bốn phương tài liệu Lịch-Sử Quân-Sự Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hòa do nhà văn Điệp-Mỹ-Linh biên khảo.
Xin mời quý vị nhìn lại những bước thăng trầm của
quân chủng Hải-Quân nói riêng, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nói chung qua
thiên tài liệu vừa được phổ biến.
Trân trọng
Hội Sử-Học Việt-Nam (tưởng niệm 39 năm quốc hận 30-04-1975_30-04-2014)
***
Lịch-Sử Quân-Sự Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hòa (Từ chương I đến chương VIII)
Chương I: Bối cảnh khai sinh Quân Đội Việt-Nam Và Những cảm nghĩ về các tổ-chức Quân-Đội Việt-Nam giữa Thế kỷ 20
Chương II: Sơ Lược Tổ Chức Của Hải-Quân Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân
Chương III: Vùng Sông Ngòi_Hành-Quân Lưu-Động
Chương IV: Những Chiến Dịch Trong Vùng Sông Ngòi_Hải Quân Phối Hợp Với Quân Bạn
Chương V: Vùng Duyên Hải_Hành-Quân Lưu-Động Biển*
Chương VI: Từ Mật Khu Vũng Rô Đến Những Diễn Tiến Trước Khi Xảy Ra Hải Chiến Hoàng Sa và Hải Chiến Hoàng-Sa Ngày 19-01-1974
Chương VII: Cuộc Đàm Thoại Bất Ngờ (1)
Chương VIII: Vùng I Duyên Hải: Những Biến Chuyển Quân Sự Và Các Cuộc Rút Quân Bằng Đường Thủy
Chương VIIIa: Vùng II Duyên Hải
Chương VIIIb: Vùng III Duyên Hải
Chương VIIIc: Vùng IV và Vùng V Duyên Hải
VÙNG IV SÔNG-NGÒI (1)
VÙNG III SÔNG-NGÒI (1)
KẾ HOẠCH PHÒNG THỦ BỘ-TƯ-LỆNH HẢI-QUÂN VÀ HẢI-QUÂN CÔNG XƯỞNG (1)
CHUYẾN RA KHƠI BI HÙNG(1)
PHỎNG VẤN NHỮNG NHÂN VẬT LIÊN HỆ (1) ĐẾN CHUYẾN-RA-KHƠI-CUỐI-CÙNG CỦA HẢI-QUÂN VIỆT-NAM CỘNG-HÒA
NHỮNG VỊ ANH HÙNG (1) HẢI-QUÂN VIỆT-NAM CỘNG-HÒA*
***
Chương VIIIa: Lịch-Sử Quân-Sự Hải-Quân Việt-Nam Cộng-Hòa
Vùng II Duyên Hải
VÙNG II DUYÊN-HẢI
Sau khi
quân V.N.C.H. rút khỏi Đà-Nẵng và tình hình Qui-Nhơn trở nên nguy ngập, Tư-Lệnh
Hải-Quân, Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang, chỉ thị Tham-Mưu-Trưởng kiêm Tư-Lệnh-Phó
Hải-Quân, Phó-Đề-Đốc Diệp Quang Thủy, ra Cam-Ranh giải quyết những ứ đọng tại
đó để Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh, Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng II Duyên-Hải, lên HQ 3 ra
Qui-Nhơn, trực tiếp điều binh tại chiến trường.
CUỘC RÚT QUÂN TẠI QUI-NHƠN (1)

Trong thời gian tình hình Đà-Nẵng
sôi động, HQ 400 – đã được tháo gỡ tất cả trang bị của một bệnh viện hạm – nhận
lệnh chuyên chở đạn pháo binh từ Cam-Ranh ra tiếp tế Sư-Đoàn 22 phòng thủ
Qui-Nhơn.
Ngày 20 tháng 3, HQ 400 ủi bãi
Qui-Nhơn.
Tối 20
tháng 3, lúc 11 giờ, trong khi chờ phương tiện “bốc” số đạn pháo binh, HQ 400
bị 3 người nhái Việt-Cộng lặn đến, đặt mìn. Nhân viên canh phòng chiến hạm phát
giác kịp thời, thảy lựu đạn, bắt sống được một tên – chỉ mới 16 tuổi – hai
người kia lặn thoát.
Vào
thời điểm này, Lực-Lượng Hải-Quân trong vịnh Qui-Nhơn có khoảng mười chiến hạm,
gồm PC, PCE và WHEC với súng lớn, có tầm bắn xa, cùng với một số PGM.
Tình hình Qui-Nhơn sôi động hơn, vì tin tình báo cho hay 3 Sư-Đoàn Bắc-Việt,
sau khi chiếm Đà-Nẵng, đang trên đường tiến vào Qui-Nhơn. Trên đường tiến quân,
Bắc quân đã chiếm một quận nhỏ phía Bắc Qui-Nhơn.
Sau khi “đổ” quân bạn và đồng bào
xuống Cam-Ranh, HQ 505 được lệnh từ Vùng II Duyên-Hải: Trở ra Sông-Cầu để yểm
trợ Duyên-Đoàn 23 rút về Nha-Trang.
HQ 3 đưa Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh,
Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng II Duyên-Hải, từ Cam-Ranh đến Qui-Nhơn. HQ 3 trở thành
Soái-Hạm.
Tại Qui-Nhơn, Tướng Nguyễn Duy
Hinh và Phó-Đề-Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại từ HQ 802 sang HQ 3; và hầu hết đơn vị trưởng
Hải-Quân đều ở trên HQ 3. Riêng Chỉ-Huy-Trưởng Hải-Đội III Tuần-Dương ở trên HQ
8.
Tư-Lệnh Hải-Quân, Phó-Đô-Đốc Chung
Tấn Cang, chỉ thị cựu Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng I Duyên-Hải, Phó-Đề-Đốc Hồ Văn Kỳ
Thoại, vào chức vụ Tư-Lệnh các Lực-Lượng Hải-Quân yểm trợ chiến trường
Qui-Nhơn.
Ngày 31
tháng 3, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đích thân ra lệnh Chỉ-Huy-Trưởng Hải-Đội
III Tuần-Dương bắn kho xăng Shell và kho xăng Quân-Nhu trên núi, thuộc thành
phố Qui-Nhơn. Đồng thời Tổng Thống Thiệu cũng chỉ thị Hải-Quân “bốc” Sư-Đoàn
22, thuộc quyền chỉ huy của Thiếu Tướng Phan Đình Niệm, tại vịnh phía ngoài hải
cảng Qui-Nhơn.
Vịnh
này rất cạn. Một hải đạo sâu nhất vịnh được ghi trên bản đồ chỉ có độ sâu từ
một thước rưỡi đến một thước tám! Điểm gần nhất chiến hạm có thể vào được cách
bờ đến khoảng năm trăm thước – một khoảng cách không thể nào một người bình
thường có thể bơi ra được!
Trong
khi HQ 7 được lệnh vào sát Ghềnh-Ráng, bắn chung quanh Tòa Tỉnh – vì được báo
cáo nơi đây đang bị Việt-Cộng tấn công – thì Hải-Quân Trung-Tá Lê Thuần Phong,
Chỉ-Huy-Trưởng Hải-Đội II Chuyển-Vận được chỉ định sang HQ 403 thực hiện cuộc đón
quân của Sư-Đoàn 22 Bộ-Binh.
Từ HQ
403, Trung-Tá Phong lấy ống dòm quan sát. Biển êm. Trên bờ quân lính ngồi ngay
ngắn, rất có kỹ luật. HQ 403 từ từ tiến vào. Cả chiến hạm đều ngạc nhiên, tự
hỏi: Tại sao thấy chiến hạm vào mà khối quân nhân trên bờ vẫn ngồi yên? Phải
chăng đơn vị này đã bị Việt-Cộng chế ngự? Tuy sợ mắc cạn và thấy tình thế bất
lợi trên bờ, HQ 403 cũng vẫn chuẩn bị ủi bãi sau khi ban hành nhiệm sở tác
chiến.
Trời
tối dần. Biển lặng cho đến nỗi có thể nghe được tiếng mũi tàu chạm vào cát.
Bỗng, ầm! Ầm! Ầm…Tiếng đạn B40 vang rền và nước bắn tung tóe trước mũi chiến
hạm. Vì chỉ là một LSM, không được trang bị súng lớn, HQ 403 báo cáo ngay về HQ
3 rồi lui ra khỏi tầm đạn, chờ lệnh.
Trong
khi HQ 403 chưa thể vào vịnh được thì Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh ra lệnh HQ 400
ủi bãi Trường Sư-Phạm Qui-Nhơn để đón vài đơn vị khác của Sư-Đoàn 22 Bộ-Binh.
Từ
trong bờ, Việt-Cộng bắn ra chiến hạm dữ dội khiến HQ 400 không thể nào ủi bãi
được. Cuối cùng, những đơn vị của Sư-Đoàn 22 phải bơi ra tàu. Trong số những
quân nhân bơi ra tàu có Thiếu Tướng Phan Đình Niệm, Tư-Lệnh Sư-Đoàn 22 Bộ-Binh.
Trong
khi đó, từ thành phố Qui-Nhơn, Trung-Đoàn-Trưởng Trung-Đoàn 42 Bộ-Binh – thuộc
Sư Đoàn 22 Bộ-Binh – Đại-Tá Nguyễn Hữu Thông, liên lạc trực tiếp với
Chỉ-Huy-Trưởng Hải-Đội III Tuần-Dương, Hải-Quân Trung-Tá Lê Thành Uyển và cho
biết rằng trong thành phố Qui-Nhơn không có một tên Việt-Cộng nào cả. Trung-Tá
Uyển hỏi về những tiếng súng thì Đại-Tá Thông trả lời, đó là của Nhân-Dân Tự-Vệ
bắn vu vơ, để ông ấy cho dẹp. Vì muốn biết tình hình trên bờ, Trung-Tá Uyển yêu
cầu Đại-Tá Thông ra tàu sớm để hỏi thăm. Đại-Tá Thông bảo Trung-Tá Uyển cho tàu
đón lính của Ông trước đi.
Tối 31
tháng 3, sau khi được báo cáo là Thiếu Tướng Phan Đình Niệm đang ở trên HQ 400
và tinh thần của Ông hơi bất an, Tướng Phạm Văn Phú, Tư-Lệnh Quân-Đoàn II, chỉ
định Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh, Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng II Duyên-Hải, thay thế
Tướng Phan Đình Niệm ở chức vụ Tư-Lệnh chiến trường Bình-Định. Tướng Phan Đình
Niệm rời vùng trách nhiệm, theo HQ 400 về Vũng-Tàu.
Sáng 1
tháng 4, Phó-Đề-Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại ra lệnh các chiến hạm bắn hải pháo vào phi
trường Qui-Nhơn.
Lúc
này, tại vịnh phía ngoài hải cảng Qui-Nhơn, không biết bao nhiêu quân nhân bơi
lố nhố trên mặt biển. Vì độ sâu của biển không cho phép chiến hạm ủi bãi, cho
nên, nhiều PCF được phái tới, vào sát bờ, cứu gần trọn vẹn một Trung-Đoàn; còn
một Trung-Đoàn khác ở lại, không bơi ra tàu.
Lý do
một Trung-Đoàn không bơi ra tàu là vì: Trong cuộc chạy loạn từ vùng hỏa tuyến
vào, cựu Trung-Đoàn-Trưởng của một Trung-Đoàn thuộc Sư-Đoàn 22 Bộ-Binh gặp lại
đơn vị cũ của Ông. Đơn vị này cho Ông biết, họ không hiểu tại sao họ phải bỏ
chạy trong khi họ đang thắng lớn tại đèo Phủ-Cũ, An-Khê. Vị Trung-Đoàn-Trưởng
“nhận lại” đơn vị của Ông, rồi tất cả quay vào rừng!
Cuộc
đón quân tại cầu tàu Qui-Nhơn được thực hiện tương đối không mấy khó khăn.
Trung-Tá Uyển lại liên lạc với Đại-Tá Nguyễn-Hữu-Thông, hỏi tại sao chưa thấy
Ông trên tàu? Đại-Tá Thông đáp: “Tôi không thể ra với anh được. Lính của tôi ra
hết rồi. Cảm ơn anh. Tôi đi về!” Không ai biết vị anh hùng ấy đi về đâu! (2)
Tất cả
Duyên-Đoàn thuộc Vùng II Duyên-Hải ở mạn Bắc Qui-Nhơn được lệnh rút về phía Nam.
Tại
Sông-Cầu, trong khi yểm trợ Duyên-Đoàn 23, HQ 505 bị hai xe tăng Việt-Cộng bắn
trực xạ. Là một LST với trọng tải chuyên chở một ngàn tấn, bài-thủy-lượng bốn
ngàn tấn và chỉ được trang bị ba khẩu 40 ly đơn để phòng không chứ không có
“moọc-chê”, Hạm-Trưởng cho chiến hạm quay mũi, chạy ra. Vừa lúc đó, Duyên-Đoàn
23 cũng ra khỏi cửa sông. Từ đây, HQ 505 hộ tống Duyên-Đoàn 23 và đoàn ghe cùng
PCF của Vùng I Duyên-Hải về Nha-Trang.
Thời
gian này, nhiều MSF và PC tuần tiễu vùng Sông-Cầu báo cáo về Trung-Tâm
Hành-Quân Hải-Quân Saigon là xe tăng Việt-Cộng di chuyển khơi khơi trên quốc lộ
và ban đêm từng đoàn Molotova chạy, rọi đèn sáng rực mà những chiến hạm này
không thể ngăn chận; vì MSF và PC chỉ được trang bị súng 76 ly mà thôi!
Sau khi
Trung-Tâm Hành-Quân Hải-Quân xin Không-Quân yểm trợ mà bị từ chối, Phó-Đô-Đốc
Chung Tấn Cang chỉ thị những chiến hạm với trọng pháo có tầm bắn xa, bắn sập
tất cả cầu trên quốc lộ I từ Qui-Nhơn đến Đèo Cả.
Hải-Quân
Đại-Tá Đỗ Kiểm, Tham-Mưu-Phó hành quân, trình lên Trung Tướng Đồng Văn Khuyên,
Tham-Mưu-Trưởng Liên-Quân: Hải-Quân có thể điều động 3 Duyên-Đoàn; mỗi
Duyên-Đoàn có khoảng 150 đoàn viên, cộng với vài chiếc WHEC có đại bác và
4, 5 MSF. Lực lượng này cùng với tất cả đơn vị Bộ-Binh, Nghĩa-Quân, Biệt-Động-Quân,
v. v…sẽ đặt tuyến vòng đai phòng thủ Qui-Nhơn. Nếu Bộ-Tổng-Tham-Mưu can thiệp
để Không-Quân yểm trợ cho lực lượng này trong vòng một tuần lễ thì Hải-Quân sẽ
tăng phái nhiều WHEC vận chuyển súng lớn đến. Và như thế, những đơn vị phía Nam
Qui-Nhơn đủ thì giờ tổ chức, phối hợp, bố trí, chận ngang quốc lộ I.
Trung
Tướng Đồng Văn Khuyên đồng ý giải pháp do Hải-Quân đề nghị và giao Hải-Quân trách
nhiệm điều động và chỉ huy.
Phó-Đô-Đốc
Chung Tấn Cang đề nghị Bộ-Tổng-Tham-Mưu: Nếu muốn giao nhiệm vụ đó cho Phó-Đề-Đốc
Hoàng Cơ Minh thì nên đặt Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh vào chức vụ Tổng-Trấn
Qui-Nhơn để Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh có toàn quyền xử dụng lực lượng Bộ-Binh và
những đơn vị hiện diện trong vùng.
Tối 1
tháng 4 lúc 11 giờ, Trung Tướng Đồng Văn Khuyên gọi Trung-Tâm Hành-Quân
Hải-Quân và cho biết: Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã ký nghị định chỉ định
Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh làm Tổng-Trấn Qui-Nhơn trong nhiệm vụ phối trí các lực
lượng, đổ quân vào tái chiếm Qui-Nhơn.
Khuya 2
tháng 4 lúc 2 giờ, Đại-Tá Đỗ Kiểm liên lạc và thông báo với Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ
Minh về quyết định của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.
Sáng 2
tháng 4, sau khi Lực-Lượng Hải-Quân tại Qui-Nhơn dồn hết vào gần bờ, Tư-Lệnh
Hải-Quân Vùng II Duyên-Hải, kiêm Tổng-Trấn Qui-Nhơn, kiêm Tư-Lệnh chiến trường
Bình-Định, Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh, cùng vài đơn vị nhỏ của Bộ-Binh và một số
sĩ quan Hải-Quân đổ bộ lên Qui-Nhơn thăm dò tình hình.
Tình
hình thành phố Qui-Nhơn yên lặng, ngột ngạt, nhưng tuyệt nhiên không có bóng
dáng tên Việt-Cộng nào cả. Tại phi trường Phù-Cát, mấy mươi chiếc phi cơ còn
nằm đó, nguyên vẹn. Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh đích thân liên lạc vô tuyến với
những đơn vị của Sư-Đoàn 22 chưa di tản; nhưng những đơn vị này đang tán loạn,
không thể liên lạc được! Tiểu-Khu-Trưởng và các Chi-Khu-Trưởng đều vắng mặt. Vì
lẽ đó, sự phối trí giữa Địa-Phương-Quân, Bộ-Binh và Biệt-Động-Quân tăng phái
không thực hiện được.
Chiều 2
tháng 4, toán quân đổ bộ trở lại chiến hạm. Kế hoạch lập chiến tuyến ở Qui-Nhơn
bị bức tử khi vừa mới tượng hình; vì những đơn vị trưởng trách nhiệm đã đào ngũ
trước khi kẻ thù xuất hiện!
Kể từ
sau khi rút quân khỏi Đà-Nẵng, một hiện tượng tương tự cứ xảy ra nơi những tỉnh
dọc theo miền duyên hải: Nếu thấy chiến hạm – bất kể của Hải-Quân Việt-Nam hay
Hải-Quân Hoa-Kỳ – lãng vãng ngoài khơi và cố vấn Mỹ chào tạm biệt
Tiểu-Khu-Trưởng để ra đi thì, liền sau đó, Tiểu-Khu-Trưởng cũng đi theo, tạo
nên tình trạng “rắn không đầu”! Binh sĩ tự động rời đơn vị về lo cho gia đình!
Trên
hải trình trở về Bộ-Chỉ-Huy Hải-Quân Vùng II Duyên-Hải, Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ
Minh chỉ thị HQ 7 bắn yểm trợ vùng Phú-Yên. Cũng chính Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh
trực tiếp điều động tất cả Lực-Lượng Hải-Quân trong vùng và liên lạc với những
đơn vị bạn trên bờ để thực hiện các cuộc đón quân dọc theo miền duyên hải.
(1) Trích từ Hải-Quân V.N.C.H. Ra Khơi,
1975 của Điệp-Mỹ-Linh
(2) Theo tài liệu của Lý Trung Tín trên website Trúc-Lâm
Yên-Tử thì – sau khi tất cả quân nhân dưới quyền của Ông nhập hạm – Đại Tá
Nguyễn Hữu Thông đã đi ngược về phía những Ngọn Đồi Vô Danh, tức cao điểm
82-174, phía Tây Nam quận Hoài-Nhơn, Bình-Định rồi tự sát để được chết cạnh
những quân nhân thuộc quyền chỉ huy của Ông đã tử trận!
CUỘC RÚT QUÂN TẠI NHA-TRANG (1)

Khi HQ
504 đưa Lữ-Đoàn 3 Nhảy Dù – dưới sự chỉ huy của Đại-Tá Lê Văn Phát – từ Đà-Nẵng
về Nha-Trang, “đổ” tại bãi trước Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Nha-Trang thì
đồng bào tại Nha-Trang mừng rỡ vô cùng; vì họ nghĩ rằng đổ quân Dù về đây có
nghĩa là V.N.C.H. sẽ cố thủ Nha-Trang.
Đoàn
lính Mũ Đỏ vừa rời chiến hạm, không hiểu từ đâu, đồng bào ùa đến, reo hò vang
dội. Nhiều người nhào đến ôm đại mấy anh lính Dù rồi vừa khóc vừa cười, phát âm
những lời vô nghĩa nhưng âm hưởng nôn nao, xúc động lạ thường. Có những bà cụ
hom hem biếu anh Nhảy-Dù củ khoai, lóng mía. Có những ông cụ trầm tĩnh, đốt
điếu thuốc, bập bập vài cái rồi gắn điếu thuốc vào môi anh lính Dù. Những em bé
đi chân trần, chạy lăng xăng, rót ly trà nóng từ cái ấm đất trao cho anh lính
Dù, rồi đôi mắt chớp chớp nhìn anh, đầy ngưỡng phục. Mỗi lúc đồng bào kéo đến
càng đông. Họ vui mừng vì sự hiện diện của đoàn quân mà, mỗi bước tiến của đoàn
quân ấy là trăm bước lùi của địch.
Thế
nhưng, ngày hôm sau, Bộ-Tổng-Tham-Mưu điều động Lữ-Đoàn Dù này lên M’Drak,
Khánh-Dương; vì lúc này mặt trận Khánh-Dương đang bung nổ dữ dội!
Mặc dù
với số lượng khoảng mười ba ngàn quân, dân di tản từ miền Trung vào và từ
Cao-Nguyên xuống, đang sống chui rúc tại đèo Rù-Rì, tình hình Nha-Trang chưa
đến nỗi rối loạn. Nhưng khi Tướng Phạm Văn Phú, Tư-Lệnh Quân-Đoàn II, rời
Nha-Trang và tin Hải-Quân Trung-Tá Hà Ngọc Lương – thủ khoa khóa 9 sĩ quan
Hải-Quân Nha-Trang – giết vợ và năm con rồi tự sát vì vợ không chịu di tản thì
đồng bào trở nên xôn xao, hoảng hốt. Tiếp theo là nhà tù bị phá. Cảnh cướp bóc
diễn ra. Đồng bào kéo nhau ra bãi biển hoặc xuống Cầu-Đá tìm phương tiện ra đi.
Ngày 1
tháng 4, Tổng-Lãnh-Sự Mỹ tại Nha-Trang ra lệnh cho tất cả công dân Hoa-Kỳ rời
Nha-Trang ngay tức khắc. Tình trạng Nha-Trang cũng giống hệt như tình trạng tại
Đà-Nẵng mấy ngày trước.
Khi HQ
401 vừa cập vào Cầu-Đá, mọi người xô đẩy nhau, rớt xuống biển. Một số người
tràn vào được chiến hạm, làm nghiêng tàu. Hạm-Trưởng phải ra lệnh cho chiến hạm
lui ra. Vì lý do đó, khi những LST và một số PCF thuộc Hải-Đội III Tuần-Dương
từ Đà-Nẵng vào, không được phép đổ quân, dân xuống Nha-Trang – như kế hoạch đã
dự trù – đành hải hành thẳng vào Cam-Ranh.
HQ 505 và HQ 403 xin vào Nha-Trang
đón quân và đồng bào di tản, nhưng Tư-Lệnh Hạm-Đội không thuận.
Thấy
không được Hải-Quân đón, một số lính nổi loạn, bắn bừa ra chiến hạm và bắn luôn
cả trực thăng. Trực thăng chở nhiếp ảnh gia David Kennerly bay vòng vòng cho
Ông chụp ảnh cũng bị bắn!
Thời
gian này, HQ 406 đang thực hiện công tác chuyển quân và tiếp tế tại Vùng IV
Duyên-Hải, được điều động về Nha-Trang đón Liên-Đoàn sinh viên Sĩ Quan Hải-Quân
vào Saigon.
Ngày 2
tháng 4, HQ 406 đến Nha-Trang. Hải-Quân Thiếu-Tá Nguyễn Ngọc Cảnh,
Liên-Đoàn-Trưởng Liên-Đoàn sinh viên sĩ quan Hải-Quân, điều động tất cả sinh
viên – khoảng 400 sinh viên – chạy bộ từ Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân xuống
Cầu-Đá. Nơi đây, phải vất vả lắm, HQ 406 mới hoàn tất được công tác đã được
giao phó.
Sáng 3
tháng 4, khoảng 6 giờ, Chỉ-Huy-Trưởng Trung-Tâm Huấn-Luyện Nha-Trang,
Phó-Đề-Đốc Nguyễn Thanh Châu, rời Nha-Trang bằng trực thăng.
Tại
Nha-Trang, Hải-Quân có thể vớt được nhiều đồng bào và quân bạn hơn; vì phương
tiện Hải-Quân đầy đủ và vì Việt-Cộng chưa xâm nhập thành phố. Nhưng cảnh hỗn
loạn khiến Hải-Quân sợ chìm tàu, cho nên, Lực Lượng Hải-Quân Vùng II Duyên-Hải
cùng với các lực lượng di tản từ Đà-Nẵng kéo vào Cam-Ranh.
(1) Trích từ Hải-Quân
V.N.C.H. Ra Khơi, 1975 của Điệp-Mỹ-Linh
BỎ NGÕ CAM-RANH (1)

Trong
khi Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh thực hiện kế hoạch đổ bộ Qui-Nhơn thì, tại
Cam-Ranh, một số Tướng lãnh từ Đà-Nẵng rút vào, xử dụng tư dinh của Phó-Đề-Đốc
Minh làm nơi tạm trú.
Trong
tình cảnh hỗn loạn và không có sự hiện diện của Tư-Lệnh Hải-Quân Vùng II
Duyên-Hải tại Bộ-Chỉ-Huy, nhiều quân nhân ngang nhiên vào kho khiêng đi những
dụng cụ điện tử Mỹ còn để lại.
Về đến
Cam-Ranh, chính Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh ra lệnh cho đám quân nhân vô kỹ luật
này đem tất cả dụng cụ điện tử để lại chỗ cũ; nếu không, Ông sẽ bắn ngay tại
chỗ. Sau đó, Tư-Lệnh Vùng II Duyên-Hải dùng trực thăng thị sát diễn tiến
những cuộc “đổ” và “bốc” quân.
Tại
vịnh Cam-Ranh, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, cựu Tư-Lệnh Quân-Đoàn II, dùng một
chiến đỉnh ra HQ 404 thăm Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, cựu Tư-Lệnh Vùng I
Chiến-Thuật.
Sau đó, HQ 404 được lệnh ủi bãi
Tân-Cảng để tất cả Thủy-Quân Lục-Chiến xuống Cam-Ranh; chỉ đưa một mình Trung
Tướng Ngô Quang Trưởng về Saigon.
Trong
khi Thủy-Quân Lục-Chiến rời HQ 404, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng lặng lẽ rời
chiến hạm, đi theo những người lính đã cùng chia xẻ những giờ phút cuối cùng
trong đời binh nghiệp của Ông! Hạm-Trưởng HQ 404 trình: “Thưa Trung-Tướng, lệnh
từ Saigon yêu cầu tôi đưa Trung Tướng về Saigon. Xin
Trung Tướng ở lại tàu cho.” Trung Tướng Trưởng đáp: “Xin phép Saigon cho
Thủy-Quân Lục-Chiến về Saigon dưỡng quân và chỉnh đốn hàng ngũ. Nếu bắt họ xuống Cam-Ranh
thì tôi sẽ xuống luôn.”
Yêu cầu
của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng được Bộ-Tổng-Tham-Mưu chấp thuận.
Riêng
HQ 802, sau khi “đổ” tất cả binh sĩ của Sư-Đoàn II Bộ-Binh, Thủy-Quân Lục-Chiến
và đồng bào xuống Cam-Ranh, được lệnh trở ra Qui-Nhơn. Nhưng vừa ra khỏi vịnh
Cam-Ranh, Hạm-Trưởng HQ 802 nhận được phản lệnh: Hủy bỏ công tác Qui-Nhơn. Về
Cam-Ranh trình diện Vùng II Duyên-Hải.
Trở lại
Cam-Ranh, HQ 802 được lệnh chuyển vận toàn bộ thành phần còn lại của Sư-Đoàn Thủy-Quân
Lục-Chiến về Vũng-Tàu.
Từ
Qui-Nhơn vào Cam-Ranh, HQ 403 kéo theo nhiều LCU Quân-Vận, LCVP, LCM và vớt
thêm rất nhiều người trên những ghe chạy ven biển. Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất,
cựu Tư-Lệnh mặt trận Kontum, nhập hạm lúc nào, tại hải phận nào, không ai hay.
Khi vào đến vịnh Cam-Ranh, biết có sự hiện diện của Tướng Phạm Duy Tất trên
chiến hạm, Hạm-Trưởng HQ 403 cặp bên hông HQ 3, mời Tướng Phạm Duy Tất sang HQ
3.
Ngày 1
tháng 4, tại Bộ-Chỉ-Huy Vùng II Duyên-Hải, Phó-Đề-Đốc Diệp Quang Thủy hội ý với
Trung Tướng Lê Nguyên Khang, phụ tá hành quân Tổng-Tham-Mưu Quân-Lực V.N.C.H.
và Thiếu Tướng Bùi Thế Lân, Tư-Lệnh Thủy-Quân Lục-Chiến. Phó-Đề-Đốc Thủy cho
rằng với lực lượng cơ hữu và những đơn vị khác từ Đà-Nẵng và Qui-Nhơn rút vào,
V.N.C.H. chỉ cần phá sập các cầu trên quốc lộ I thì có thể giữ được Cam-Ranh,
chờ Saigon tăng phái để lập phòng tuyến Cam-Ranh. Tướng Khang và Tướng Lân đồng
ý.
Phó-Đề-Đốc Thủy liên lạc với
Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang, xin hai đại đội Người Nhái để thực hiện công tác phá
cầu.
Sau khi
nhận được yêu cầu của Phó-Đề-Đốc Thủy, vì tình hình tại Bộ-Tổng-Tham-Mưu rối
loạn, Phó Đô-Đốc Cang phải liên lạc trực tiếp với Thủ-Tướng Trần Thiện Khiêm.
Chiều 1 tháng 4, Tư-Lệnh Hải-Quân,
Phó-Đô-Đốc Chung Tấn Cang, thông báo cho Phó-Đề-Đốc Diệp Quang Thủy: Phải rút
khỏi Cam-Ranh theo lệnh trên!
Vào thời điểm này, trong lúc lên
Bộ-Chỉ-Huy Vùng II Duyên-Hải nhận chỉ thị, Hải-Quân Trung-Tá Dương Hồng Võ,
Chỉ-Huy-Phó Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân Cam-Ranh, gặp Trung Tướng Lâm Quang
Thi. Tướng Thi hỏi:
- Anh còn bao nhiêu lính? Mình tử
thủ.
- Thưa, tôi còn một ngàn sáu trăm lính; nhưng vũ khí chỉ là vũ khí để huấn
luyện chứ không có súng lớn.
- Có đơn vị tiếp vận gần đây, anh ghé lấy.
- Dạ, đơn vị đó đi hết rồi.
- Nếu nó chạy thì nó chạy mình không chứ nó mang súng ống theo làm gì. Anh cứ
tới phá kho. Mình tử thủ.
Trung-Tá
Võ không biết phải đáp như thế nào, chỉ cười, rồi vào phòng hành quân nhận
lệnh. Khi Trung-Tá Võ trở ra, trực thăng chở các vị Tướng đang lấy đà, nâng
thân tàu lên!
Tối 1 tháng 4, HQ 403 được lệnh
đón tân binh, quân nhân và gia đình tại cầu tàu Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân
Cam-Ranh.
Cầu tàu
không đèn, nước lại ròng và gió từ trong bờ thổi ra rất mạnh. Ba lần HQ 403 cập
vào, cả ba lần đều bị dạt ra. Hạm-Trưởng HQ 403 phải đổi lối cặp lùi.
Hạm-Trưởng HQ 403 thường áp dụng lối cặp này mỗi khi về bến, hoặc mỗi khi phải
trực cầu Tư-Lệnh mà bị nước xuôi dòng. Những lần đó Hạm-Trưởng HQ 403 thành
công. Nhưng lần này, vì không đèn, vị sĩ quan đứng sau lái không cho dấu hiệu
kịp thời, cho nên HQ 403 đụng vào cầu và bị thủng một lỗ lớn!
Trong
khi Hạm-Trưởng và nhân viên HQ 403 tận dụng mọi khả năng để đưa chiến hạm vào
cứu nhóm người trên cầu tàu thì, trong nhóm người ấy, một số quân nhân
nổi loạn, cướp của, giết người, gây kinh khiếp một vùng. Một Trung-Đội Lôi-Hổ
giúp Hải-Quân tước vũ khí đám loạn quân, tái tạo an ninh rồi mới đưa được mọi
người lên HQ 403.
HQ 403, được lệnh xuôi Nam trong khi nhiều thương thuyền ngoại quốc và xà-lan đầy
người vẫn còn neo trong vịnh.
Tình
cảnh vịnh Cam-Ranh trong thời điểm này không khác chi Đà-Nẵng. Lính nổi loạn,
bắn bừa ra chiến hạm. Người từ ghe hay tàu nhỏ hoặc xà-lan leo lên tàu lớn, hụt
tay, rớt xuống biển. Trẻ em bị ném từ dưới ghe nhỏ hoặc xà-lan lên tàu lớn.
Người trên tàu lớn chụp hụt, em bé rơi vào giữa hai thành tàu. Tiếng thét hãi
hùng. Tiếng “bụp” khô khan. Vệt máu đỏ trên thành tàu. Một cơ thể tí ti chập
chờn trên mặt nước đã loang màu hồng!
Bên Ba-Ngòi, từng suối người cuồn
cuộn tuôn về Nam.
Ngày 2
tháng 4, Phó-Đề-Đốc Diệp Quang Thủy rời Cam-Ranh bằng HQ 7. Chính chiến hạm HQ
7 này, đầu thập niên 60, Phó-Đề-Đốc Diệp Quang Thủy đã từng là Hạm-Trưởng.
Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh, sau khi
ra lệnh thiêu hủy kho dụng cụ điện tử do Mỹ để lại, lên HQ 3, vào phòng tuyến
Phan-Rang.
2 giờ chiều cùng ngày, quân của
Sư-Đoàn 10 Việt-Cộng tiến vào Cam-Ranh, không gặp bất cứ một sự kháng cự nào
cả!
TRÊN BIỂN PHAN-RANG (1)

Sau khi
HQ 501 chuyển Sư-Đoàn II Bộ-Binh đến Bình-Tuy, Chuẩn Tướng Trần Văn Nhựt được
lệnh đưa Trung-Đoàn 6 vô Phan-Thiết, Trung-Đoàn 5 và Trung-Đoàn 4 ra Phan-Rang.
Tại
tuyến Phan-Rang, Chuẩn Tướng Trần Văn Nhựt trực thuộc sự điều động của Trung Tướng
Nguyễn Vĩnh Nghi. Lúc bấy giờ, Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi là phụ tá Tướng Nguyễn
Văn Toàn, chỉ huy mặt trận tiền phương Phan-Rang.
Tại
vịnh Phan-Rang, Lực-Lượng Hải-Quân gồm có:
ü
Duyên-Đoàn
27
ü
HQ 2, HQ
3, HQ 403, HQ 228
ü
Vài LCU
ü
Nhiều
PGM
Chiều 3
tháng 4, gần Duyên-Đoàn 27, Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh từ HQ 3 chuyển sang HQ 2.
Là
một Destroyer, HQ 2 được trang bị: Một khẩu 76 ly 2, hai giàn 40 ly đôi,
mười giàn 20 ly đôi. Sau khi tham dự các cuộc rút quân từ miền Trung, HQ 2 được
lệnh án ngữ vùng biển Phan-Rang.
Ngày 4
tháng 4, HQ 403 neo trong vịnh Phan-Rang. Khoảng xế trưa, một ghe nhỏ chở 5, 6
quân nhân xin nhập hạm. Một quân nhân chỉ một người ngồi trong ghe và nói với
Hạm-Trưởng: “Đó là Đại-Tá Tiểu-Khu-Trưởng Tiểu-Khu Nhinh-Thuận (Phan-Rang). Xin
Hạm-Trưởng cho lên tàu.” Hạm-Trưởng đáp: “Tôi được lệnh không đón ai hết.” Sau
một lúc chần chừ, chiếc ghe chạy dọc theo bờ biển, về hướng Nam.
HQ 403
nhổ neo, chạy tới chạy lui vùng biển Phan-Rang. Tối đến, từ máy truyền tin
PRC25 của chiến hạm vang lên những lời bực dọc: “Việt-Cộng chưa tới mà thằng
cha Tỉnh Trưởng chạy đâu mất tiêu!” và nhiều câu tương tự.
Ngày 5
tháng 4, mấy phi cơ A37 của Không-Quân V.N.C.H. ra dội bom dọc triền núi
Cam-Ranh. Phi cơ do Trung-Úy phi công Lý-Tống lái bị trúng đạn phòng không của
Việt-Cộng, rớt tại cầu Trà-Long!
Thời
điểm này, HQ 7, sau khi đưa Phó-Đề-Đốc Diệp Quang Thủy về Saigon, được
chỉ thị ra vịnh Cà-Ná. Ban ngày, HQ 7 tuần tiễu từ đền Rạch-Trắng (Nha-Trang)
đến Tuy-Hòa, mặc dù đã thuộc về Việt-Cộng. Ban đêm, HQ 7 về lại vịnh Phan-Rang,
bắn vào những vị trí theo lệnh của Tư-Lệnh hành quân Lưu-Động-Biển, Phó-Đề-Đốc
Nguyễn Hữu Chí.
Vài hôm sau, HQ 7 được lệnh vào
sát bờ Cam-Ranh để bắn chận xe tăng Việt-Cộng; vì xe tăng Việt-Cộng chạy ngờ
ngờ trên quốc lộ I.
Ngày 12 tháng 4, HQ 403 về Saigon. HQ
406 đưa hai đại đội Cánh-Sát Dã-Chiến từ Cát-Lỡ ra tăng cường cho mặt trận
Phan-Rang.
Ngày 13 tháng 4, HQ 505 được lệnh
sang Thành-Tuy-Hạ nhận 800 tấn đạn 105 ly và 155 ly, chuyển ra tiếp tế
Phan-Rang.
HQ 17,
sau thời gian tiểu kỳ, được lệnh ra Vùng II Duyên-Hải. HQ 503 cũng được lệnh ra
Phan-Thiết, Phan-Rang và nhận lệnh chỉ huy của Hạm-Trưởng thâm niên tại vùng
biển này – lúc bấy giờ là Hạm-Trưởng HQ 17.
Ngày 15
tháng 4, Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh cùng Hạm-Trưởng HQ 2, Hải-Quân Trung-Tá Đinh
Mạnh Hùng – người trùng cả tên lẫn họ với Phó-Đề-Đốc Đinh Mạnh Hùng, phụ tá
Tư-Lệnh Hải-Quân hành quân Lưu-Động-Sông – đáp trực thăng vào phi trường
Phan-Rang hội.
Phiên
họp gồm có:
- Ø
Trung
Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi
- Ø
Chuẩn
Tướng Trần Văn Nhựt
- Ø
Chuẩn
Tướng Phạm Ngọc Sang – Sư-Đoàn-Trưởng Sư-Đoàn VI Không-Quâ
- Ø
Phó-Đề-Đốc
Hoàng Cơ Minh
- Ø
Vài
sĩ quan cấp tá
Buổi
họp chưa bàn thảo được gì thì ngoài bãi đậu, nhiều phi công trực thăng lấy trực
thăng bay đi, tạo nên cảnh hốt hoảng, rối loạn; vì họ nghe đồn Việt-Cộng đang
vây phi trường Phan-Rang.
Các
Tướng lãnh không liên lạc được với Quân-Đoàn III và cũng không điều động được
ai cả, đành phân tán. Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh được một trực thăng đưa ra HQ 3.
Tướng
Trần Văn Nhựt cũng được một trực thăng “vớt”. Và, rút kinh nghiệm từ những cuộc
di tản ngoài miền Trung, Tướng Nhựt ra lệnh phi công đưa Ông ra biển. Thấy HQ
3, Tướng Nhựt từ trực thăng nhảy xuống biển và được nhân viên HQ 3 vớt lên. Từ
đài chỉ huy HQ 3, Chuẩn Tướng Trần Văn Nhựt, Tư-Lệnh Sư-Đoàn II Bộ-Binh, báo
cáo trung ương: Phan-Rang thất thủ!
Trung
Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi và Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang không tìm được phương tiện
rời phi trường.
Trong
khi những sự việc nêu trên xảy ra, Hạm-Trưởng HQ 2 đi bộ – chứ không phải chạy
bộ – từ phi trường Phan-Rang đến Duyên-Đoàn 27, đáp Yabuta ra HQ 2.
Ngày 16
tháng 4, HQ 406 đến hải phận Phan-Rang. Khi chiến hạm tiến vào bãi biển
Phan-Rang thì được lệnh Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh không cho ủi bãi. Hạm-Trưởng
báo cáo về Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân rồi lềnh bềnh cách bờ khoảng hai hải lý, chờ
lệnh.
Tối 16
tháng 4, tình hình Phan-Rang sôi động. HQ 3 đổi vị trí. HQ 406 được lệnh lui ra
xa.
Sáng 19 tháng 4, HQ 505 đến vịnh
Phan-Rang.
Mặt trận Phan-Rang bùng nổ.
Sáng 20 tháng 4, HQ 505 và HQ 406
nhận lệnh phải lềnh bềnh cách bờ khoảng 2 hải lý, chờ lệnh.
Hai chiếc T54 nằm ngay bãi biển,
nòng súng chỉa thẳng ra hai chiến hạm.
HQ 406 được lệnh đem Cảnh-Sát
Dã-Chiến về lại Cát Lỡ.
Từ bờ
biển Phan-Rang, một rừng ghe ào ạt bơi ra. Điều đặc biệt là trên ghe không có
đồng bào, chỉ có lính và lính. HQ 505 được lệnh không vớt ai cả. Sau đó, HQ 505
được lệnh rời vịnh Phan-Rang.
HQ 3
đưa Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh về Saigon. HQ 2 và những chiến hạm khác vẫn lềnh bềnh ngoài khơi. HQ
503 được lệnh tiếp nhận khoảng 200 quân và dân thuộc quận Tuy-Phong, phía Nam
Phan-Rang. Nhóm quân, dân này rút ra biển bằng ghe.
(1) Trích từ Hải-Quân
V.N.C.H. Ra Khơi, 1975 của Điệp-Mỹ-Linh
BÊN BỜ PHAN-THIẾT (1)

Trên
đường lui binh về Nam, chiến hạm Hải-Quân, hoặc đã đầy người, hoặc đang chuyên
chở vũ khí nặng, không thể giúp các đơn vị bạn tại Phan-Thiết nhiều, như đã
giúp những đơn vị khác từ các tỉnh miền Trung.
Tại vịnh
Cà-Ná, thuộc tỉnh Ninh-Thuận, HQ 503 đang tuần tiễu thì thấy một trực thăng bay
quanh chiến hạm. Một mệnh lệnh vang lên từ máy truyền tin: “Mặt trời muốn nói
chuyện”. Hạm-Trưởng HQ 503 tức tốc chụp ống liên hợp. Trung Tướng Nguyễn Vĩnh
Nghi từ trực thăng đích thân ra lệnh cho Hạm-Trưởng HQ 503: “Anh vào bờ vớt mấy
thằng con của tôi.” Chỉ một câu đó thôi, rồi trực thăng biến dạng vào bờ.
Sau khi
lấy ống dòm, nhìn vào bờ và thấy mấy toán Nhảy-Dù đang dùng kính phản chiếu cấp
cứu rọi ra chiến hạm, Hạm-Trưởng HQ 503 liên lạc với Hạm-Trưởng HQ 17, xin chỉ
thị. Hạm-Trưởng HQ 17 chấp thuận.
Vùng
Cà-Ná núi đá ra tận biển, cho nên việc đưa một LST vào sát bờ không thể thực
hiện được. Hạm-Trưởng cho hạ hai LCVP xuống ủi bãi; nhưng hai LCVP cũng không
vào được. Hạm-Trưởng mạo hiểm, đưa HQ 503 vào sát bờ hơn nữa. Nhưng khoảng cách
từ chiến hạm đến bờ cũng khoảng hai, ba trăm thước, không thể nào mấy toán
Nhảy-Dù có thể bơi ra được!
Thấy
một số ghe tam bản đánh cá gần đó, Hạm-Trưởng HQ 503 cho gọi họ đến, thương lượng.
Những ngư phủ này đồng ý đưa mấy toán Nhảy-Dù ra chiến hạm để đổi lấy hai
“phuy” dầu cặn. Để làm tin, Hạm-Trưởng cất tất cả thẻ kiểm tra của nhóm ngư phủ
và mỗi ghe phải để lại một người trên chiến hạm.
Vì ghe
tam bản không có khả năng đi xa, Hạm-Trưởng phải giữ chiến hạm càng gần bờ càng
tốt. Trong vị thế như vậy, chỉ một sơ hở hay một cơn sóng bất thần hoặc một
luồng gió mạnh cũng có thể đẩy chiến hạm lên bờ; mà mắc cạn trong lúc này là
chết hết!
Để
phòng ngừa mọi bất trắc, Hạm-Trưởng chia nhân viên thành hai nhóm. Nhóm chỉ huy
chiến hạm do Hạm-Trưởng đảm trách; nhóm chỉ huy các ghe vào đón quân Dù do
Hạm-Phó phụ trách.
Chiều
16 tháng 4, khoảng 5 giờ, công tác hoàn tất. HQ 503 vớt được 20 anh lính
Dù.
Sau khi
vận chuyển, quay mũi ra khơi, Hạm-Trưởng HQ 503 giao chiến hạm cho sĩ quan
đương phiên. Vào phòng chưa được bao lâu, Hạm-Trưởng nghe tiếng gõ cửa gấp rút:
“Hạm-Trưởng! Hạm-Trưởng! Việt-Cộng pháo ra tàu.” Hạm-Trưởng chụp ngay ống liên
hợp, ra lệnh cho đài chỉ huy: “Nhiệm sở tác chiến! Tăng tốc độ tối đa. Lái
zigzag ra khơi. Gọi tàu bạn tới cứu!”
Ra lệnh
xong, Hạm-Trưởng chạy ngay lên đài chỉ huy. Hạm-Trưởng vừa lên ngang phòng ăn,
một trái đạn rớt ngay phòng vô tuyến. Sĩ quan vô tuyến bị thương. Hạm-Trưởng ra
lệnh cho hạ sĩ quan vô tuyến: “Gọi tàu bạn tới cứu!” rồi Hạm-Trưởng tiếp tục
chạy lên đài chỉ huy.
Vì nghĩ
rằng khi chiến hạm bị trúng trọng pháo, điện sẽ bị hỏng, hệ thống điện thoại sẽ
bị gián đoạn, Hạm-Trưởng chạy vòng ra phía trước, bên ngoài đài-chỉ-huy, cầm
ống hơi – không cần dòng điện – để chỉ huy, chứ Ông không vào đài chỉ huy, ngồi
lên ghế Hạm-Trưởng, với đầy đủ hệ thống chỉ huy toàn chiến hạm.
Hạm-Trưởng
vừa cầm ống hơi, bất ngờ một quả đại bác rớt ngay đài chỉ huy. Một sĩ quan và
năm nhân viên trong đài chỉ huy tử thương! Hạm-Trưởng bị sức ép, ngã xuống. Chỉ
vài tích tắc, Hạm-Trưởng HQ 503 bừng tỉnh và cảm thấy vật gì nhầy nhụa trong
lòng bàn tay trái và máu từ trên đầu tuôn xối xả! Hạm-Trưởng tưởng rằng Ông đã
chết và vật nhầy nhụa trong bàn tay là não của Ông! Nhưng không hiểu một mãnh
lực nào đó trợ giúp, Hạm-Trưởng HQ 503 gượng đứng dậy, tiếp tục ra lệnh
cho phòng lái (ngay dưới đài chỉ huy): “Tiếp tục lái ra khơi. Kêu tàu bạn tới
cứu. Báo cáo Hạm-Trưởng có lẽ đã chết!
Nghe HQ 503 kêu cứu, HQ 17 phản
pháo dữ dội.
Ra khỏi
tầm đạn của Việt-Cộng, kiểm điểm lại, HQ 503 bị trúng 20 trái đại bác. Chiến
hạm bị hư hại nặng, chỉ còn một máy. Hai mươi nhân viên chết và bị thương.
Hạm-Trưởng thoát chết!
Trong
khi những sự việc nêu trên xảy ra cho những người thừa hành lệnh của Trung
Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi thì, chính Trung Tướng Nghi, sau khi bay trở lại mặt
trận Phan-Rang để tham dự cuộc họp hành quân tại phi trường, đã bị Việt-Cộng
bắt tại một hầm chống pháo kích, cùng với Chuẩn Tướng Không-Quân Phạm Đình Sang
và một nhân viên tình báo Hoa-Kỳ, Lew James!
Tối 16
tháng 4, khoảng 9 giờ, Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh chỉ thị HQ 503 trực chỉ
Vũng-Tàu. Vì chiến hạm chỉ còn một máy, chạy chậm và cũng vì thiếu dụng cụ
y-khoa cấp cứu, một số nhân viên bị thương nặng phải chết!
Thời
điểm này HQ 7 đang tuần tiễu vùng Mũi Né, được điều động vào vịnh Cà-Ná, bắn
hải pháo vào những điểm tình nghi có Việt-Cộng. Sau đó, HQ 7 lại được điều động
khẩn cấp từ Cà-Ná về bắn hải pháo yểm trợ phi trường Phan-Thiết.
HQ 403 từ Saigon được
lệnh trở ra Phan-Thiết, lềnh bềnh ngoài khơi, chờ. HQ 11 được chỉ định thay thế
HQ 7 tại vịnh Cà-Ná
HQ 11
vừa đến Cà-Ná liền bị Việt-Cộng bắn 105 ly trực xạ. Đạn rơi quanh chiến hạm.
Một trái trúng chiến hạm nhưng lại không nổ, gây tử thương cho một thượng sĩ
trọng pháo. Sau đó HQ 11 được lệnh về Saigon sửa chữa, rồi tuần
tiễu ở vịnh cù lao Thu, trong vịnh Phan-Thiết.
Đêm 17 tháng 4, lửa đạn mịt trời
trong thành phố Phan-Thiết.
Trưa 18 tháng 4, HQ 505 nghe tiếng
kêu cứu của Đại-Tá Tỉnh-Trưởng Phan-Thiết trong máy truyền tin PRC25, nhưng
đành chịu!
Thời
gian này, Hộ-Tống-Hạm Ngọc-Hồi HQ 12 đang yểm trợ giàn khoan dầu ngoài khơi
Vũng-Tàu, được điều động về vùng biển Phan-Thiết. Tại Phan-Thiết, HQ 12 cùng
với HQ 7 bắn hải pháo yểm trợ vùng Hàm-Tân.
Sau khi Hàm-Tân thất thủ, lính ùa
ra biển và được HQ 403 vớt.
Đêm 19 tháng 4, trong khi đoàn xe
tăng Việt-Cộng trên quốc lộ I nã trọng pháo ra HQ 17 và chiến hạm này đang đáp
lại bằng hải pháo trực xạ thì HQ 17 được lệnh ra đảo Trường-Sa thay thế HQ 16.
Quần
đảo Trường-Sa là một vị trí chiến lược, gồm rải rác nhiều đảo xa nhau. Trong
những đảo đó, Trung-Hoa Quốc-Gia chiếm một, V.N.C.H. chiếm ba đảo nhỏ và đang
tranh chiếm thêm nhiều đảo nữa, nhưng không được. Ngoài ra, Phi-Luật-Tân và
Mã-Lai cũng công bố chủ quyền của họ trên vài đảo.
Hải-Quân Trung-Cộng hiện diện
trong vùng Trường-Sa gồm một mẫu hạm và vài chiến đỉnh. Hải-Quân V.N.C.H. chỉ
có HQ 14 và HQ 16.
Hải-Quân
V.N.C.H. và Hải-Quân Trung-Cộng theo dõi nhau bằng radar, mắt thường chỉ thấy
lờ mờ. Đôi bên gườm nhau nhưng có vẻ né tránh một cuộc hải chiến. Hễ Hải-Quân
Việt-Nam tiến vào thì Hải-Quân Trung-Cộng dạt ra; nếu Hải-Quân Việt-Nam lui ra
thì Hải-Quân Trung-Cộng tiến vào. Tình trạng căng thẳng liên miên như vậy khiến
Hạm-Trưởng Việt-Nam phải thức suốt đêm đấu trí với Hạm-Trưởng Trung-Cộng.
HQ 17 đến thay thế HQ 16, tình
trạng vẫn không thay đổi!
Sáng 26
tháng 4, Trung-Cộng cắm cờ trên một hòn đảo không người của ba hòn đảo thuộc
chủ quyền của V.N.C.H. Nhưng vì tình hình nội địa rối ren, HQ 17 chưa nhận được
chỉ thị gì cả.
Ngày 28
tháng 4, qua đài phát thanh, Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu yêu cầu người Mỹ rời khỏi
Việt-Nam trong vòng 24 giờ. Hạm-Trưởng HQ 17 tiên đoán được phần nào những biến
chuyển tại thủ đô. Sau nhiều giờ suy nghĩ, Hạm-Trưởng HQ 17 xin và được Hạm-Đội
Hải-Quân V.N.C.H. chấp thuận cho rút quân.
HQ 17
đón Địa-Phương-Quân của Tiểu-Khu Phước-Tuy và Tiểu-Khu Bình-Tuy trên đảo Thị-Tứ
và đảo Nam-Yết. Vì đảo Nam-Yết ở phía Nam và đảo Thị-Tứ ở mạn Bắc, cách nhau
khoảng bảy hoặc tám giờ hải hành, cho nên đến 6 giờ chiều 29 tháng 4, HQ 17 mới
khởi hành về Vũng-Tàu.
1.- Trích từ Hải-Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975 của Điệp-Mỹ-Linh
@ Quân-Sử Việt-Nam
Follow @quansuvnTweet