Thiên Niên Sử Thăng-Long Thành

Mục Lục:
Tựa
Tựa
Chương I/ Dẫn Nhập:
Chương II/ Tư tưởng tộc Việt thời tối cổ:
Chương III/ Nếp Suy Tư Bình Dân:
Chương IV/ Nếp Suy Tư Bác Học:
Chương V/ Nếp Suy Tư Bác Học - Vận Nước Ý Dân Nam Quốc Sơn Hà Năm 981:
Chương VI/ Nếp Suy Tư Bác Học - Bài thơ Vận Nước và Bài Thơ Thần:
Chương VII/ Tư Tưởng Bác Học - Sự Khởi Đầu Của Tam Giáo Đồng Nguyên :
Chương VIII/ Tư tưởng Việt Nam từ đầu thế kỷ thứ 11 đến thế kỷ thứ 15 sau khi thành rồng bay lên được hình thành:
Chương IX/ Tư tưởng Việt Nam từ đầu thế kỷ thứ 15 đến thế kỷ thứ 17 sau khi thành rồng bay lên được hình thành:
Chương X/ Tứ Đại Thiên Tài Quân Sự Việt Nam:
Chương XI/ Từ Ngàn Năm Thăng Long 2010 Đến Thỏa Hiệp Việt Trung 2011:
Chương XII/ Hướng Đến Một Nền Đa Giáo Đồng Nguyên, Một Xã Hội Phân Nhiệm:
Trúc Lâm Nguyễn Việt Phúc Lộc biên khảo
Chương IX/ Tư tưởng Việt Nam từ đầu thế kỷ thứ 15 đến thế kỷ thứ 17 sau khi thành rồng bay lên được hình thành:
Nho
giáo được đem vào đời sống dân tộc khi vua Lý Thánh Tông cho cất văn
miếu thờ Khổng Phu Tử, cùng bảy mươi hai vị hiền năm 1070; đến đời nhà
Trần, nho giáo càng phát triển, vua Trần Thánh Tông chọn nho sinh để
làm quan thay vì chọn người trong hoàng tộc và Phật giáo, và từ đó Nho
giáo đã tự xem mình là chính thống, còn những đạo khác là tà phái mà
thôi. Cho dù với quan niệm cởi mở của tam giáo cũng không thể nào lướt
qua được tinh thần khống chế, độc tôn và tự đại của nho sinh. Bởi thế
mới có một Lê Văn Hưu, một nho gia có tên tuổi đời nhà Trần đã phê bình
(trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư) vua Lý Thái Tổ đã tôn sùng Phật giáo
một cách quá mức khi chưa xây nhà thờ tổ tiên, đài xã tắc, lại đi cất
chùa.
Hơn
nữa việc xưng hô lại không biết, vua xưng là Trẫm, các quan viên gọi
vua là bệ hạ, chỗ vua ở là triều đình, nơi phân phối mệnh lệnh là triều
tỉnh...sau đến Lý Cao Tông bảo người ta gọi là "Phật", đặt tên nước là
Đại Cồ Việt, Đại Việt. Rồi Lê Văn Hưu lại nói thêm, Khổng Tử bảo: tên
đặt không đúng, khi nói ra không xuôi miệng. Khổng Tử sở vi "danh bất
chính, tắc ngôn bất thuận", thử dã.
Sử
gia Lê Văn Hưu muốn chứng tỏ là nước ta sao không bắt chước, học hỏi
Tầu, tại sao có những sự xưng hô như thế mà không sửa đổi, đồng thời
chỉ có Khổng Tử là chính thống. Khi Lê Văn Hưu muốn chứng tỏ như thế,
có thể ông không biết rằng chính Khổng Tử là người đã đem văn hóa Việt
dạy dỗ cho người Tầu trong Kinh xuân thu, cách đó trên dưới gần hai ngàn
năm.
Trái
lại sử gia Ngô Thời Sĩ (một nho gia) lại công nhận việc nhà Lý phạt
Tống là một chiến công hiếm có, vào bậc thượng thừa thời đó.
Tư
tưởng Tống nho (do ảnh hưởng nho giáo thời nhà Tống nên gọi là Tống
nho) đó lại ảnh hưởng mạnh vào giới nho sĩ Việt Nam, khiến họ mang tự
ti mặc cảm với nước Tầu, quên đi sự hùng cường độc lập của Đại Việt.
Khiến sau này vua Trần Minh Tông và Trần Nghệ Tông cho họ đã quá nô lệ
nhà Tống mất đi sự sáng tạo để thâu hoá của dân tộc, và đặt cho họ biệt
danh là "bạch diện thư sinh". Quan niệm Nho học độc tôn của Lê Văn Hưu,
Lê Quát cũng như Trương Hán Siêu đã đi ngược lại tư tưởng NHÂN TRỊ
của dân tộc.
Thế
rồi tư tưởng tam giáo đồng nguyên bắt đầu suy thoái từ cuối thời vua
Trần Hiển Tông (1329-1341) rồi kéo dài cho tới thời vua Trần Thiếu Đế
(1398-1400).
Sau đó bị Hồ Quý Ly lợi dụng
quyền bính trong tay cướp ngôi nhà Trần và cai trị đất nước khoảng bảy
năm (1400-1407). Khi lên ngôi vua, Hồ Quý Ly đã áp dụng tư tưởng pháp
trị để cai quản quốc gia. Thực tế có thể nói là tư tưởng tâm linh khai
phóng của tam giáo đồng nguyên đã xung đột với tư tưởng thực tiễn bế
quan. Hay nói một cách khác quan niệm Nhân Trị (tam giáo đồng nguyên) và
Pháp Trị (nho gia) xung đột với nhau đã đưa đến việc Hồ Quý Ly cướp
ngôi nhà Trần.
Ông cho tiến hành cải cách quân
đội, với mục đích làm sao có được trăm vạn hùng binh để chống với giặc
Tầu; về giáo dục, cố gắng cởi bỏ tâm lý tự ti mặc cảm của nho gia đối
với Tầu, đồng thời ông đề cao chữ Quốc Âm và ông dịch Kinh Thư ra chữ
Quốc Âm rồi hiệu đính cho các nữ quan học hỏi. Đại để là Hồ Quý Ly đã
phát động một cuộc cách mạng tư tưởng, đề cao lối học khoa học thực
dụng, bác bỏ lối học từ chương trích cú. Hơn nữa ông còn đề cao Chu
Công lên trên Khổng Tử.
Thế nhưng sự cải cách của ông
đã không được dân tộc ủng hộ, vì các giới cho rằng Hồ Quý Ly là kẻ phản
nghịch cướp ngôi nhà Trần đưa đến việc quân nhà Minh sang tấn chiếm và
nước ta bị đô hộ trong 20 năm (1408-1428).
Khi quân Minh đánh bại quân của
Hồ Quý Ly năm 1407, họ đã tịch thu tất cả tài liệu, thư khố của Đại
Việt và đem về Kim Lăng cũng như bắt đi những nhân tài nước ta đem về
Tầu phục vụ cho chúng. Đây là lần diệt chủng văn hóa lần thứ hai trong lịch sử dân tộc.
Trong số những nhân vật thuộc
triều đình nhà Hồ bị quân Minh bắt được, có Hàn Lâm Viện Học Sĩ Nguyễn
Phi Khanh. Nguyễn Phi Khanh là cha của Nguyễn Trải. Cả hai đều là nhân
tài của thời Trần Hồ đào tạo nên.
Kịch thơ Hận Nam Quan của Hoàng cầm có đoạn:
Đây biên giới hai nước thù đẫm máu;
Đây Nam Quan ... con mắt khép tình thâm
Lối qua lại của một loài cuồng khấu
Là Nam Quan ... chua xót bóng nghìn năm.
Đây Nam Quan, bốn bề sương lạnh lẽo,
Hồn thuở xưa lay động bóng tinh kỳ
Ai đi sứ nơi quê người lẽo đẽo
Cỏ hoa rừng dâng lệ khóc phân ly ?!
Đây Nam Quan, những u hồn thấp thoáng
Đứng đầu non, trông rõi bóng quê hương
Đây Nam Quan, anh hùng xưa lảng vảng
Trỏ sang Tàu, vẽ máu trên đường gươm.
Đây Nam Quan, nơi tướng quân họ Lý
Đuổi quân thù để cứu lấy dân sinh
Lại phóng xá cho giống người tiểu kỷ
Rút binh về, múa tít lưỡi gươm linh
Đây Nam Quan, quân Nguyên rời biển máu
Thoát rừng xương, tơi tả kéo nhau về
Say chiến công, tướng nhà Trần lảo đảo
Nắng chiều hôm rung động ánh gươm thề.
Màu thời gian phất phơ làn khói biếc
Bóng người xưa lồng lộng tít trời xanh
Đến bây giờ Thăng Long nằm đợi chết
Đau lòng ta tiếng gọi dưới trăng thanh
Nước phá, nhà tan, muôn dân u uất !
Biết bao giờ lau sạch máu trên đầu ?
Mấy cha con như thần vụt tắt,
Đường xa xôi, huyết lệ chảy về đâu ?
...
Ý chí kiên cường bất khuất của
Nguyễn Phi Khanh đã nung nấu bầu nhiệt huyết của Nguyễn Trải. Sau này,
Nguyễn Trải đã phò Lê Lợi kháng quân Minh và trở thành người có công mở
đầu triều đại nhà Lê.
Ngày 29 tháng 4 năm 1428, khởi
nghĩa của Lê Lợi thành công, đánh đuổi toàn bộ quân Minh ra khỏi bờ cõi
nước Nam. Nguyễn Trải đã thảo và công bố bài Bình Ngô Đại Cáo. Nội
dung là báo tin mừng chiến thắng cho cả dân tộc, đồng thời nêu cao
chính nghĩa, nhân nghĩa của mười năm kháng chiến chống quân Minh.
Đầu bản văn khẳng định
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Ông đã tố cáo sự tàn bạo độc ác của quân xâm lược nhà Minh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
..
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
Không thể nào chấp nhận cảnh nô lệ đen tối, và theo hiệu lịnh của Đồng Cổ Đông Sơn, tộc Việt đã vùng lên khởi nghĩa
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Trong cuộc khởi nghĩa tộc Việt đã đề cao nền văn hiến
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Và nhờ đó đã đoàn kết dân tộc chiến thắng quân xâm lược nhà Minh
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông
Linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Than ôi! Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
Ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay.
Tư tưởng căn bản của Nguyễn
Trải cũng như vào thời này là đề cao NHÂN NGHĨA. Ở đầu bài Bình Ngô Đại
Cáo, Nguyễn Trải đã hùng hồn công bố :"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân".
Mặc dù ông là một nho gia, nhưng tư tưởng Nhân Nghĩa đã được ông chủ
xướng trong việc tham gia nghĩa quân Lam Sơn chống quân xâm lược nhà
Minh. Nhân Nghĩa của Nguyễn Trải là tư tưởng Nhân Nghĩa đã tồn tại từ
thời Hai Bà Trưng cho đến lúc đó, là một tư tưởng Nhân Nghĩa cứu dân cứu
nước, chứ không phải của tống nho từ chương trích cú, chỉ lo công danh
lợi lộc như những nho gia cuối thời Trần, vì thù ghét Hồ Quý Ly cướp
ngôi nên đã chỉ đường vẽ lối cho quân Minh dễ dàng xâm chiếm Đại Việt.
Như khi ông đáp lại thư của tướng quân Minh là Phương Chính: "Phù đồ đại sự giả dĩ Nhân Nghĩa vi tiên. Duy Nhân Nghĩa chi kiêm toàn, cố sự công chi tất tể" nghĩa "Phàm
người làm việc lớn cần phải lấy tình thương và tư cách làm đầu. Chỉ có
tình thương và tư cách hoàn toàn mới hoàn thành mọi việc".
Tình thương (Nhân) ở đây theo ý
ông là tình thương đến muôn loài, là tình thương bao hàm cả trời đất
của Lục Độ Tập Kinh truyền lại; Còn tư cách (Nghĩa), danh từ khác là
Hạnh, là giữ gìn tư cách, lý tưởng cho đến hơi thở cuối cùng.
Với Nhân và Nghĩa trên ông đã
cùng với nghĩa quân Lam Sơn đánh bại đoàn quân xâm lăng của nhà Minh.
Điểm đặc biệt là ông đã áp dụng chiến thuật công tâm đi đầu rồi mới tới
công thành đã khiến nhiều tướng giặc phải ra hàng. Đông Quan có Vương
Thông, Mã Anh, Lý An, Trần Trí, Sơn Thọ, Mã Kỳ, Phương Chính. Tại Tây
Đô có Hà Trung. Tại Chí Linh có Cao Tường. Khi quân tướng giặc ra
hàng, đa số dân chúng Đại Việt mong muốn chém đầu tất cả người này để
trả mối thù đã giết chóc gia đình của họ và dày xéo đất nước Đại Việt
trong hơn mười năm qua. Nhưng Nguyễn Trải và Lê Thái Tổ đã dĩ đức báo
oán, cốt để tiêu diệt tận gốc mầm mống hận thù và giữ được tiếng thơm
sau này. Những quân lính nhà Minh này đều được trao trả về xứ sở cũng
như cấp phát lương thực quần áo đem theo trên đường.
Nguyễn Trải còn chủ trương Nhân
Nghĩa trong đạo làm tướng khi ông viết thư trả lời Phương Chính : "Vi
tướng chi đạo dĩ Nhân Nghĩa vi bản, Trí Dũng vi tư" nghĩa "Một vị
tướng phải lấy Nhân Nghĩa làm đầu, còn Trí và Dũng chỉ là phương tiện
tiếp theo". Đây là một định nghĩa cho bậc Thiên Tài Quân Sự.
Cũng cùng chữ Nhân nhưng người Tầu và người Việt có những suy tư và hành xử khác nhau.
Chữ Nhân của người Tầu được
trình bày đầu tiên trong Ngũ Thường của Khổng Tử. Vốn để đào tạo một
chính nhân quân tử Trung Hoa. Ngũ Thường gồm Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
Thầy Mạnh Tử định nghĩa người đại trượng phu quân tử như sau: Phú quý bất năng dâm. Khi người quân tử được giàu sang thì không nên say mê danh vọng, địa vị, sắc đẹp, bài bạc, hút sách ở cuộc đời; Bần cùng bất năng di.
Người quân tử cho dù gặp nhiều khó khăn trở ngại hay bần cùng trong lý
tưởng hay trên cuộc đời cũng không nên nản chí mà bỏ đi lý tưởng mình
đã và đang theo đuổi; Uy vũ bất năng khuất. Người quân tử không bao giờ bị khuất phục bởi sức mạnh, cường quyền.
Phải công nhận một điều chữ
Nhân nói trên còn bị khá nhiều giới hạn. Giới hạn của nó ở chổ chỉ nhằm
tu chỉnh con người bên ngoài nhưng thiếu chú trọng về mặt tâm hồn.
Nghĩa là tu dưỡng nội tâm để trở nên một con người có thể tự thắng
mình. Con người tự thắng mình tức là con người đã vượt qua được những
sự phiền não, tựu chung ở tham lam, giận dữ và mê muội. Hơn nữa chữ
Nhân của người Tầu không mở rộng thành tình thương giống nòi đồng loại.
Chữ Nhân của người Việt là
trường hợp khá đặc biệt, chính Nguyễn Trải đã cụ thể hóa chữ Nhân này
trong cuộc kháng chiến chống quân Minh.
Bình Ngô Đại Cáo là một áng văn
trác tuyệt của thế kỷ thứ 15, có thể nói đây là văn bản tượng trưng
cho sự chuyển tiếp từ tam giáo đồng nguyên khai phóng, hài hòa sang nền
Nho giáo độc tôn thống trị.
Tư tưởng Nhân Nghĩa của Nguyễn
Trải là một tổng hợp giữa hai nền văn hóa lớn ở Á Châu vào lúc đó và
cho đến bây giờ. Đó là nền văn hóa Việt Nam và Trung Hoa. Cung cách hành
xử nơi ông cho thấy tổng hợp cả hai lý tưởng bồ tát và quân tử đều
được thực hiện cùng một lúc trong việc cứu nước giúp dân.
Dù vậy, hai nhân vật lớn của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã có hai tư tưởng rất khác biệt.
Nguyễn Trải đại diện cho tư
tưởng Nhân Nghĩa phóng khoáng bao dung, ảnh hưởng của nền tam giáo đồng
nguyên thời Lý Trần, cũng như tư tưởng thời Vua Hùng và Phật giáo được
kết tinh trong Lục Độ Tập Kinh.
Lê Thái Tổ đại diện cho khuynh
hướng Nho giáo độc tôn pháp trị. Ở đây cách hành xử của ngài khác với
Hồ Quý Ly, cho dù lập nên triều đại mới, nhưng vẫn giữ nền tảng của của
triều đại cũ bằng cách đặt lại quốc hiệu là Đại Việt, chứ không thay
đổi là Đại Ngu như họ Hồ.
Quả vậy, khi vua Lê Lợi lên
ngôi, ông đã xây dựng triều đại của mình bằng các chủ trương của Nho
giáo. Nhưng loại Nho giáo mà ông hướng theo lại quá triệt để bằng cách
thủ tiêu hầu hết các người có công đánh giặc Minh như Trần Nguyên Hãn,
Phạm Văn Xảo, ngay cả Nguyễn Trải cũng bị nghi ngờ, rồi bị bắt, được thả
ra sau đó hai tháng.
Thế nhưng số phận nghiệt ngã đã
đến với ông. Nguyễn Trãi và toàn gia tộc rụng đầu ngày 16 tháng 8 năm
Nhâm Tuất tức ngày 19 tháng 9 năm 1442 dưới lưỡi dao oan nghiệt của cái
triều đình ươn hèn và tăm tối mà chính ông đã chiến đấu gian khổ để
dựng nên.
Điều đặc biệt là những năm
cuối đời trước khi chết, Nguyễn Trải từ thuở thiếu niên đã hướng về Nho
giáo, lúc lớn tuổi lại thay đổi quan niệm hướng về đạo Phật, đặc biệt
là tinh thần Trúc Lâm Yên Tử của Đức Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Ông cho
rằng Nho giáo không thể nào giải quyết rốt ráo vấn đề của nhân sanh
cũng như giấc mộng giúp nước giúp đời của ông.
Thanh niên phương dự ái Nho lâm
Lão khứ hư danh phó mộng tầm.
Trượng sách hà tòng quy Hán thất;
Bảo cầm không tự tháo Nam âm.
Nghĩa
Lúc tuổi xanh tiếng thơm sực nức rừng nho
Đến khi già bỏ mặc mộng tìm danh hư.
Chống roi ngựa làm gậy biết đâu tìm nhà Hán
Ôm đàn cuống gãy điệu phương Nam
...
Ông đau khổ thốt lên rằng
Ta dư cửu bị nho quan ngộ
( Thân ta bị cái mũ nhà nho đánh lừa đã lâu )
Sự kiện Nguyễn Trải và ba họ
bị chém đầu đã chấm dứt mối liên hệ với tam giáo đồng nguyên thời Lý
Trần mà Nguyễn Trải là người đại diện sau cùng. Từ đó về sau, ý thức hệ
Nho giáo hoàn toàn chủ đạo đất nước, và chế độ tập quyền của triều
đình trung ương đi đến cực thịnh dưới thời vua Lê Thánh Tông
(1460-1497), tiêu biểu của hệ thống tư tưởng trong giai đoạn này là vua
anh minh thì xã tắc, dân chúng được nhờ cậy. Còn vua u mê ám chướng
thì xã tắc lung lay, nhân dân điêu đứng. Sự suy thoái bắt đầu từ thời
vua Lê Uy Mục (1505-1509) làm loạn, giết anh em, chú bác ruột thịt đến
26 mạng người.
Tư tưởng Nho giáo độc tôn đến
nỗi trong thời vua Lê Thái Tông vào tháng 12 năm 1437 đã giết quan nhập
nội đại Đô đốc Lê Ngân vì có người điềm chỉ cho triều đình là nhà của
Lê Ngân có thờ Phật Quan Âm.
Và cuộc khủng hoảng ý thức hệ
đã xảy ra một cách trầm trọng. Cuộc khủng hoảng này kéo dài khoảng 100
năm. Song song với cuộc khủng hoảng ý thức hệ này là sự kiện bờ cõi Đại
Việt được mở rộng về phía Tây và Nam; cũng như nhiều nhà buôn ngoại
quốc và buôn bán trên đất nước chúng ta ở Hội An, hoặc các nhà truyền
giáo Tây phương đến giảng đạo Công giáo như các giáo sĩ người Tây
phương vào các năm 1533 - 1596. Trước tình hình này, triều đình Đại Việt
đã có sự thích ứng ra sao?
Bởi vì do chính sách độc tôn
thống trị của Nho giáo, đã đào tạo nên một tầng lớp Nho gia chỉ lo công
danh lợi lộc, sẵn sàng bán nước cầu vinh, chẳng màng đến đời sống nhân
dân cơ cực đã khiến đất nước xảy ra các cuộc nội chiến lâu dài như
Trịnh Nguyễn Mạc phân tranh, nhuệ khí, hùng tâm, thực lực của dân tộc
bị tiêu hao trầm trọng trong các thế kỷ 15, 16, 17, 18.
Sự thống khổ của dân chúng
trong các cuộc nội chiến do sự suy thoái của bộ phận cầm quyền Nho giáo
đã khiến Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm thốt lên:
Xuyên huyết sơn hài tùy xứ hữu
nghĩa
Núi xương sông máu đầy dẫy non sông
Lại nữa, do sự buôn bán với
nước ngoài, đặc biệt là Tây phương, tư tưởng Nho giáo cũng như các Nho
gia, cảm thấy khó có sự thích hợp hay đồng cảm với người ngoại quốc. Từ
đó họ đã có thái độ co cụm lại, nhất quyết bảo vệ những gì mình có
đồng thời bác bỏ những tư tưởng canh tân theo kịp đà tiến bộ khoa học
kỹ thuật của nước ngoài. Có những Nho gia nổi tiếng đã không chấp thuận
tình hình suy đồi nêu trên và dứt khoát thoát ly, một trong những
người đó là Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm
1491 mất năm 1585, quê làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại (thuộc Vĩnh
Bảo, Hải Phòng). Tên thật là Nguyễn Văn Đạt, tự là Hạnh Phú
(khi đi thi ông xử dụng tên Nguyễn Bỉnh Khiêm). Sinh ra trong một
gia đình có tiếng tăm, cha là: Thái Bảo Nghiêm (Quận Công Nguyễn
Văn Định), mẹ là Nhữ Thị Thục (con gái quan thượng thư Nhữ Văn
Lâm)
Thời ông trưởng thành đất nước
có nhiều biến loạn, ông chọn cách sống ẩn, không đi thi làm quan. Mãi
đến năm 45 tuổi (năm Ất Mùi 1535), mới đậu tiến sỹ (trạng nguyên),
niên hiệu Đại chính thứ sáu, đời Mạc Thái Tông được phong tước Trình
tuyên hầu nên được người đời gọi là Trạng Trình, làm quan được 7 năm.
Ông làm sớ dâng vua để hạch tội 18 gian thần, nhưng không được triều
đình chấp thuận đành phải về hưu năm 53 tuổi lập am Bạch Vân, lấy tên
hiệu là Bạch Vân cư sỹ.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà tư
tưởng lớn của thế kỷ thứ 16, tuy xuất thân nho gia, nhưng tấm lòng đã
trang trải tất cả cho đất nước và dân tộc. Ông là người có tài cao, có
tâm huyết muốn phục vụ đất nước và dân tộc nhưng không thành công như ý
muốn nên đã ký thác tâm tư vào thơ văn.
Văn thơ của ông về tình hình
đất nước không khô khan, cứng ngắt, ngược lại nhiều câu còn mang tính
chất trào phúng, bình dân cũng như nói lên cảnh thực của cuộc sống như
Còn bạc, còn tiền, còn đệ tử
Hết bạc, hết tiền, hết ông tôi
Trong Kiến Văn Tiểu Lục, nhà
bác học Lê Quý Đôn đã nhận xét về tình hình quan trường cũng như tư
tưởng của thời Nguyễn Bỉnh Khiêm như sau:
"Hồi quốc sơ, sau thời
nhiễu nhương, bọn nhà Nho thưa thớt. Những người làm nên chức Thị Tụng
như ông Thiên Tích, ông Bùi cầm hồ, đã rực rỡ khí phách anh hào lại sẵn
lẽ can đảm dám nói. Những ngưòi mến thích thú lâm tuyền như ông Lý Tử
cấu, Nguyễn Thi Trung, đều một niềm giữ tiết tháo trong sạch, không
chút lòng mơ tưởng giàu sang, đấy là một thời kỳ (1428-1471).
Trong khoảng đời Hồng Đức
mở rộng đường khoa mục thành cuộc long trọng để kén dùng. Học trò bèn
đua nhau nghiêng quá về mặt văn hay, chỉ cốt thêu trạm lời phú câu thơ
cho đẹp hòng mong lấy bảng cao chức trọng cho sang, còn phần khí tiết
khẳng khái thì đã thấy tan tác ỉu suy. Nhưng được cái đường sủng vinh
đã mở thì cách khoa lệ cũng nghiêm, ai điềm tĩnh thì tự nhiên được cất
chức, kẻ chạy chọt cầu cạnh thì bị cách phạt. Bởi vậy người làm quan
bấy giờ ít thói bon chen mà thiên hạ biết quí danh nghĩa. Đó là một
thời kỳ nữa (1471-1505).
Từ đời Đoan Khánh trở về
sau, lối thanh nghị suy kém quá, thói luồn cúi ngày thịnh dần. Kẻ quyền
vị ít người giữ được lễ liêm khiết nhúng nhường, nơi triều đình ít
thấy lời dám can ngăn kích thiết. Gặp việc khó thì chịu hén để khỏi bận
bịu, thấy cơ nguy thì bán nước để cầu an toàn, cả đến bậc gọi là danh
nho cũng yên lòng nhận lấy cái vinh sủng bất nghĩa mà vẫn cỏn thi ca đi
lại, khoe hay, khoe đẹp cùng nhau. Phong thói sĩ phu thật hỏng nát
không bao giờ bằng hồi này. Sự tệ hại của một cuộc biến chuyển này
không thể nói hết được. Tìm trong khoảng trên dưới một trăm năm quốc sử
này lấy những bậc đáng gọi là cao sĩ thì chỉ được có vài người như bọn
ông Lý Tử Cấu, thật đáng tiếc cho những bậc phong tiết này ít thấy quá
vậy".